mercredi 8 avril 2015

Nếu tính sòng phẳng, chi ly, chưa chắc Việt Nam đã nợ Trung Quốc về tiền của...

PLS : Hehe, đọc mấy con số chả hiểu gì sất, nhưng cứ lưu lại ở đây mai mốt ngẫm đi nghĩ lại !


Nếu tính sòng phẳng, chi ly, chưa chắc Việt Nam đã nợ Trung Quốc về tiền của...

Phạm Viết Đào.

         Tạm ước 14/9/1946 được ký tại Pari giữa Hồ Chí Minh, chính phủ Pháp và Trung Hoa dân quốc...

Xin không đề cập tới các món nợ mang ý nghĩa chính trị mà xin đề cập tới các món nợ có thể quy đổi ra USD mà Việt Nam chịu nợ Trung Quốc…

Theo WikiPedia thì:”Qua 20 năm, Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổng khối lượng hàng hóa là 2.362.581 tấn; quy đổi thành tiền là hơn 7 tỉ rúp (tương đương 6,8 tỉ USD), trong đó hơn một nửa là viện trợ quân sự, còn lại là viện trợ kinh tế.[4]
Như vậy, trong món nợ khoảng trên 3 tỷ USD theo thông lệ quốc tế mà Việt Nam buộc phải ghi nợ, đó là các món nợ kinh tế thì Trung Quốc là một trong 10 nước xã hội chủ nghĩa: Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa (bao gồm Tiệp Khắc, Ba Lan, Hungary,Bulgaria, România, CHDC Đức, CHDCND Triều Tiên  Cuba
Hiện nay về những khoản nợ kinh tế, Việt Nam đã tìm cách trả cho một số nước, hoặc một số nước đảng thoả thuận xoá đi một phần những khoản nợ mà Việt Nam đã vay.
Đối với Trung Quốc, đã có lúc chủ blog đã tìm được số liệu mà Việt Nam đã chịu nợ với Trung Quốc, đó là các món nợ kinh tế nhưng hiện chưa tìm lại được…
Trong bài viết này xin đề cập tới một khoản lợi ích vật chất mà nhờ có cuộc chiến tranh của nhân dân Việt Nam mà Trung Quốc đã đươc hưởng lợi: Đó là việc Trung Quốc đã được khai thác, hưởng lợi từ tuyến đường sắt Lào Cai-Côn Minh dài 465 km trước thời hạn bạn giao của Pháp 50 năm ? Đây là một tuyến đường sắt kỳ vĩ, Pháp đã bỏ ra nhiều công sức, tiền của để xây dựng tuyến đường sắt này…
Theo WikiPedia thì:”Tuyến đường sắt này dài 855 km, trong đó 390 km nằm trên lãnh thổ Việt Nam (từ Hải Phòng lên đến Lào Cai), và 465 km trên lãnh thổ Trung Quốc (từ Hà Khẩu lên đến Côn Minh). Thời gian xây dựng tuyến đường sắt này được xây dựng trong vòng 10 năm, từ 1901 đến 1910,
Xe lửa chạy tuyến đường này hoạt động đến năm 2000 thì phía Trung Quốc đình chỉ nên sau đó xe từ Hải Phòng lên phải dừng ở Lào Cai. Đoạn đường bên Trung Quốc bỏ hoang.”
Theo một số nguồn tin mà người viết bài này nắm được:Tuyến đường sắt Hải Phòng- Côn Minh là tuyến đường sắt do Pháp đầu tư xây theo hình thức giống như BOT thời hiện đại; Pháp đã ký với nhà Mãn Thanh: xây dựng, khai thác 100 năm sau đó giao trả lại cho Trung Quốc…
Theo hiệp định đã ký kết thì đáng ra Pháp khai thác tuyến đường sắt này tới năm 2010 mới bàn giao cho Trung Quốc nhưng Trung Quốc đã thu hồi và sử dụng tuyến đường sắt này từ năm 1949 và sử dụng tới năm 2000…Tại sao có sự thay đổi này ?
Trung Quốc tiếp quản tuyến đường sắt Côn Minh-Lào Cai từ tay Pháp sớm hơn hiệp định đã thoả thuận có nguồn gốc từ văn bản Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946 được ký giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Pháp và Trung Hoa dân quốc của Tưởng Giới Thạch.

Hiệp định Sơ bộ Việt – Pháp 14/9/1946 đã biến thoả thuận tay đôi Hoa - Pháp thành thoả thuận tay ba Việt - Pháp - Hoa, kết thúc vai trò của lực lượng Tưởng Giới Thạch về mặt pháp lý theo quyết định của các nước lớn Đồng minh tại Hội nghị Potsdam. Việc đẩy quân đội Tưởng ra khỏi Việt Nam đã làm thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng nước ta.
Với hiệp định này Việt Nam đã loại được một kẻ thù đó là loại 30 vạn quân Tưởng ra khỏi Việt Nam; Để loại được 30 vạn quân Tưởng này nhiều tài liệu lịch sử chỉ đề cập tới sách lược, tài ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà không nhắc tới thực chất là một cuộc mặc cả tay 3 giữa Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Pháp và Chính phủ Tưởng Giới Thạch…
Để Tưởng Giới Thạch đồng ý nhường lại miền bắc Việt Nam cho Pháp, rút quân ra khỏi Việt Nam, Pháp đã nhượng lại quyền khai thác tuyến đường sắt Lào Cai-Côn Minh cho chính quyền Trung Hoa dân quốc trước thời hạn hơn 50 năm theo ký kết…Đáng lẽ Pháp phải được khai thác tới năm 2010 nhưng đã chấm dứt khai thác từ 1946, và quyền lợi này đã về tay Trung Quốc từ năm 1949 bởi Tướng Giới Thạch đã bị đánh đuổi ra khỏi lục địa…
Như vậy, cuộc kháng chiến và nổi dậy của nhân dân Việt Nam chống phát xít Nhật đã tạo điều kiện cho Tưởng Giới Thạch đưa quân vào chiếm đóng Việt Nam; Cũng do có sự kháng cự của nhân dân Việt Nam nên 3 phía Việt Nam-Pháp-Trung Hoa dân quốc ngồi lại ký kết Tạm ước 14/9/1946, một trong những thoả thuận của bản tạm ước đó là việc hoàn trả việc khai thác tuyến đường sắt Lào Cai-Côn Minh cho Trung Hoa dân quốc trước 50 năm, quyền lợi này sau này Cộng hoà nhân dân Trung Hoa của ông Mao được hưởng…
Còn về phía Việt Nam, chính phủ Hồ Chí Minh cũng không đơn giản chỉ ký vào là Tưởng Giới Thạch trực tiếp là Tướng Lư Hán chịu thu quân rút ra khỏi Việt Nam. Theo một vài nhân chứng cho biết: Để Lư Hán chịu rút quân về, đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cụ Huỳnh Thúc Kháng đã mang 20 kg vàng, số vàng thu được trong Tuần lễ vàng hối lộ cho Lư Hán thì y mới chịu về…
Việc ông Hồ Chí Minh và Huỳnh Thúc Kháng mang 20 kg vàng hối lộ cho Tiêu Văn-Lư Hán sau đó cũng gây ra một số điều dị nghị, nghi ngờ trong nội bộ Việt Minh; ( Tổng Bí thư Trường Chinh )…
Theo một số nhân chứng kể: đích thân ông Phạm Văn Đồng lúc đó là Bộ trưởng Bộ tài chính thu gom vàng đưa đến; đích thân ông Hồ Chí Minh và Huỳnh Thúc Kháng trực tiếp kiểm cân số vàng này và mang đi.
Hai ông già này đã đến gõ cửa nhà Lư Hán đóng ở Cửa Nam, hai ông Hồ Chí Minh và Huỳnh Thúc Kháng phải ngồi chờ Lư Hán hơn 2 tiếng đồng hồ ở sảnh vì Lư Hán không chịu tiếp ngay… Không chịu được sỷ nhục này, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã dậm chận khiến vỡ cả gạch lót nền nhà Lư Hán và dục ông Hồ Chí Minh: Về thôi cụ ạ, nhục quá, không chịu nổi. Ông Hồ Chí Minh đã kiên nhẫn vỗ về cụ Huỳnh Thúc Kháng: Xin cụ hãy thương dân, chịu nhục một tý…
Khi Lư Hán chịu tiếp hai ông già, câu đầu tiên ông Hồ Chí Minh phủ đầu Lư Hán: Các ngài đề nghị chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà cung cấp gạo nhưng chính phủ chúng tôi không còn gạo; Ngay bản thân tôi hàng tuần cũng đang phải nhịn ăn…Nói đến đây ông Hồ dừng lại để thăm dò; Vì ông muốn tìm cách đuổi đám Tàu ô này đi sớm, nếu cấp gạo chúng sẽ dây dưa ở lại ngày nào chúng sinh chuyện ngày ấy…Dừng lại một chốc, ông Hồ tiếp: Chúng tôi không còn gạo nhưng có cái này dành riêng cho ngài, đó là số vàng mà chúng tôi quyền góp được của dân…
Có số vàng này, Lư Hán mới chịu rút quân; Chuyện này sau này đã bị ông Trường Chinh cự lại: Tại sao các Cụ mang vàng của dân đi mà không báo cho Đảng biết; Lúc đó ông Trường Chinh là Tổng Bí thư Đảng CS Việt Nam…Cụ Huỳnh Thúc Kháng đã gạt đi: Các anh chỉ biết một mà không biết hai; Thử hỏi cho các anh biết thì làm sao Lư Hán nó dám nhận? Nếu Lư Hán ở lại thì đã chắc gì anh còn, tôi còn?
Tóm lại không phải ngẫu nhiên mà có Tạm ước 14/9/1946 để Chính phủ Việt Minh loại bớt được một kẻ thù mà có cái giá của nó; Trong thoả ước này, Trung Quốc của ông Mao đã được hưởng lợi nhờ công sức, xương máu và cả tiền bạc của nhân dân Việt Nam…
Tóm lại, Việt Nam đã giúp Trung Quốc tiếp quản, khai thác sớm trước 50 năm tuyến đường sắt Côn Minh-Lào Cai.

Xem thêm WikiPedia:

Những khoản viện trợ, cho vay của các nước xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ chiến tranh:

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[sửa | sửa mã nguồn]

Viện trợ của khối Xã hội chủ nghĩa cho VNDCCH 1970-74 (ước tính của Hoa Kỳ)[3]
Năm
Viện trợ kinh tế
(triệu USD)
1970
675-695
1971
695-720
1972
425-440
1973
575-605
1974
1.150-1.190
1970-74
3.520-3.650
Qua 20 năm, Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổng khối lượng hàng hóa là 2.362.581 tấn; quy đổi thành tiền là hơn 7 tỉ rúp (tương đương 6,8 tỉ USD), trong đó hơn một nửa là viện trợ quân sự, còn lại là viện trợ kinh tế.[4]

Tiền mặt[sửa | sửa mã nguồn]

Cho đến nay vẫn chưa có số liệu chính thức công bố số tiền mặt viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ phía nhà nước Việt Nam, nhưng theo Nguyễn Nhật Hồng Trưởng bộ phận B29:[19]
"Toàn bộ tiền viện trợ và tiền giúp đỡ của quốc tế cho Việt Nam đánh Mỹ đều tập trung về một đầu mối là B29... Từ 1965 đến 1975, B29 đã tiếp nhận Sáu trăm bảy mươi tám triệu bảy trăm ngàn đô la Mỹ (số tròn)(678.700.000 USD), trong đó hơn sáu trăm hai sáu triệu đô la là tiền viện trợ đặc biệt, hơn hai mươi bốn triệu đô la là tiền của các tổ chức và nhân dân quốc tế ủng hộ, gần 21 triệu đô la là tiền lãi kinh doanh chuyển đổi và gửi ngoại tệ ở nước ngoài, gần bảy triệu rưỡi đô la là lãi từ tiền dự trữ của chiến trường sau giải phóng...".

Hàng hóa[sửa | sửa mã nguồn]

Viện trợ của khối Xã hội chủ nghĩa cho VNDCCH (ước tính của Hoa Kỳ)[3]
Năm
Viện trợ quân sự
(triệu USD)
1970
205
1971
315
1972
750
1973
330
1974
400
Tổng cộng 1970-74
2.000
Qua 20 năm, Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổng khối lượng hàng hóa là 2.362.581 tấn; quy đổi thành tiền là hơn 7 tỉ rúp (tương đương 7 tỉ USD, trong đó hơn một nửa là viện trợ quân sự).[4] Ngoài 1 số như máy bay, tên lửa chỉ dùng ở miền bắc còn lại đều chuyển vào miền Nam qua đường Trường Sơn.
Giai đoạn 1965-1971, theo số liệu của các nhà nghiên cứu Liên bang Nga, tổng giá trị viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam là 1 tỷ 579 triệu USD, tức mỗi năm viện trợ trung bình đạt 220 triệu USD. Tổng trị giá viện trợ quân sự tính riêng trong 2 năm từ tháng 1-1966 đến tháng 12-1967 là 500 triệu rúp (xấp xỉ 550,5 triệu USD). Năm 1967, theo Báo cáo thường niên của Bộ Ngoại giao Liên Xô (12-1967), đây là năm Liên Xô cung cấp viện trợ cao nhất cho Việt Nam với khoảng 400 triệu USD. Báo cáo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng Việt Nam cho thấy "Liên Xô viện trợ nhiều nhất vào hai năm 1965 - 1967, có nhiều loại vũ khí tương đối hiện đại, nhưng phần lớn đã qua sử dụng, trừ MiG-21, ĐKZ-B, cao xạ 23 ly, xe kéo pháo bánh xích, ô tô"[20]
Giai đoạn 1970-1974, tài liệu của CIA giải mật của Hoa Kỳ thì đưa ra những con số ước tính trong biểu đồ, theo đó giai đoạn này VNDCCH nhận được khoản 2 tỷ USD viện trợ. Còn theo thống kê của VNDCCH thì giá trị viện trợ quân sự thực tế của họ sau 1973 thấp hơn nhiều so với ước tính của Mỹ, bởi Trung Quốc đã dừng cấp viện trợ (theo thỏa thuận trongThông cáo Thượng Hải với Mỹ). Trong 2 năm 1973-1974, tổng cộng VNDCCH nhận được 114.532 tấn viện trợ quân sự, trị giá 339.355.353 rúp (~330 triệu USD), chỉ bằng 19% so với 2 năm 1971-1972[21]
Có những lúc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ chối nhận viện trợ nếu khoản viện trợ đó đi kèm những điều kiện mà họ không chấp nhận. Khi Trung Quốc đề nghị viện trợ 500 chiếc xe vào Trường Sơn với điều kiện lái xe là người Trung Quốc, Tổng Bí thư Lê Duẩn không đồng ý nhận bất cứ một chiếc xe nào vì tin rằng Trung Quốc lồng ghép vào đó những toan tính riêng của họ (Trung Quốc từng mượn đường vào đánh Chiêm Thành thời nhà Trần, rồi từng lấy cớ vào giúp Lê Chiêu Thống để kéo quân vào Hà Nội). Có người trong Bộ Chính trị đề nghị "sao không nhận một vài chiếc cho người ta vui?", nhưng ông trả lời: "Chừng nào tôi còn ngồi đây, thì tôi không cho một kẻ nào nghĩ trong đầu rằng có thể cướp được đất nước Việt Nam này"[22]
Để tăng cường năng lực hậu cần của mình, ngay từ năm 1957 VNDCCH đã tự tổ chức sản xuất vũ khí và phương tiện để giảm bớt phụ thuộc vào viện trợ. Trong 3 năm 1973 đến 1975, VNDCCH đã tự sản xuất được 3.409 tấn vũ khí đạn dược, 1.863 tấn phụ tùng xe, máy và 26.074 tấn quân trang, quân dụng khác.[23]
Khối lượng hàng quân sự Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa (bao gồm Tiệp Khắc, Ba Lan, Hungary,Bulgaria, România, CHDC Đức, CHDCND Triều Tiên  Cuba) viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1955 đến1975, qua từng giai đoạn như sau[8]:
Giai đoạn
Tổng số
(tấn)
Hàng hậu cần
(tấn)
Vũ khí, trang bị kỹ thuật
(tấn)
Liên Xô
(tấn)
Trung Quốc
(tấn)
Các nước khác
(tấn)
Giai đoạn 1955-1960
49.585
4.105
45.480
29.996
19.589
Giai đoạn 1960-1964
70.295
230
70.065
47.223
22.982
442
Giai đoạn 1965-1968
517.393
105.614
411.779
226.969
170.798
119.626
Giai đoạn 1969-1972
1.000.796
316.130
684.666
143.793
761.001
96.002
Giai đoạn 1973-1975
724.512
75.267
49.246
65.601
620.354
38.557
Tính theo số lượng

Phân loại
Đơn vị tính
Liên Xô
Trung Quốc
Các nước XHCN khác
Súng bộ binh
khẩu
439.198
2.227.677
942.988
Súng chống tăng
khẩu
5.630
43.584
16.412
Súng cối các loại
khẩu
1.076
24.134
2.759
Pháo hỏa tiễn
khẩu
1.877
290
Pháo mặt đất
khẩu
789
1.376
263
Pháo cao xạ
khẩu
3.229
614
Bộ điều khiển
bộ
647
Bệ phóng rốc két
chiếc
1.357
Đạn rốc két
quả
10.169
Tên lửa SA-2
hệ thống
23
Đạn tên lửa VT 50v
quả
8.686
Tên lửa Hồng Kỳ
e
1 trung đoàn
Tên lửa S125
e
2 trung đoàn
Đạn tên lửa K681
quả
480
480
Máy bay chiến đấu
chiếc
316
142
Tàu chiến hải quân
chiếc
52
30
Tàu vận tải hải quân
chiếc
21
127
Xe tăng các loại
chiếc
687
552
10
Xe vỏ thép
chiếc
601
360
Xe xích kéo pháo
chiếc
1.332
322
758
Xe chuyên dùng
chiếc
498
6.524
2.502
Phao cầu
bộ
12
15
13
Xe máy công trình
chiếc
100
3.430
650
Ống dẫn dầu
bộ
56
11
45
Thiết bị toàn bộ
bộ
37
36
3

http://nvphamvietdao1.blogspot.fr/2015/04/viet-nam-no-trung-quoc-nhung-gi-va-viet.html

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire