PLS : Hehe, cắt dán bài đem về blog mình, không thèm xin phép, hy vọng là cao nhân thì tính tình cũng không nhỏ mọn như những kẻ tầm thường !
Không biết ai có thể phản biện được ngài Trương Nhân Tuấn nhỉ? Luật sư Nguyen Le-Hà chắc chỉ đáng giúp việc cho ngài ấy thôi. Còn các ông luật sư Cù và Lê, chẳng biết các ông ấy học hành thế nào, hay là chữ thày lại đem trả cho thày rồi? Mọi người hiếm khi được chiêm ngưỡng tài năng của các ông ấy lắm !!
Không biết ai có thể phản biện được ngài Trương Nhân Tuấn nhỉ? Luật sư Nguyen Le-Hà chắc chỉ đáng giúp việc cho ngài ấy thôi. Còn các ông luật sư Cù và Lê, chẳng biết các ông ấy học hành thế nào, hay là chữ thày lại đem trả cho thày rồi? Mọi người hiếm khi được chiêm ngưỡng tài năng của các ông ấy lắm !!
Tôi chỉ không khoái cái đề nghị của ông T. N. Tuấn về vụ chia đôi Hoàng Sa cho ta và Trung Quốc ! Không chia chác gì cả, nếu cần thì ta lại giằng co, tranh chấp tiếp. Còn ông Lê Hoài Trung muốn cùng Trung Quốc khai thác dầu, thì nghe muốn uýnh ổng luôn, nhưng nếu cứ nhất định muốn vậy (kẻo các bác thân Tàu lại điên lên bán nước), thì điều kiện cần phải là, ta phải có hiệp ước liên minh với Mỹ, để nếu dân tộc Trung Hoa bao đời nổi danh lừa đảo lại trở mặt, thì ta không có nắm dao đằng lưỡi. Liên minh với Mỹ trước đi, rồi Trung Quốc muốn khai thác dầu cùng với ta, thì ta cũng cho một ít.
Thử đưa một giải pháp nhằm giải quyết tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa giữa VN và TQ, nhân vụ giàn khoan 981
Các mục tiêu (không tiềm ẩn) của TQ trong vụ đặt giàn
khoan HD 981 trong vùng biển của đảo Tri Tôn, thuộc Hoàng Sa của Việt
Nam, từ đầu tháng 5-2014, là :
- Khẳng định chủ quyền của TQ tại quần đảo Hoàng Sa.
- Thăm dò thái độ VN trong việc xác định ranh giới biển của quần đảo Hoàng Sa.
-
Xác định trữ lượng dầu khí dưới thềm lục địa trong vùng lưu vực sông
Hồng (lưu vực sông Hồng trải dài từ các cửa các nhánh sông Hồng ở miền
Bắc, trải dài cho đến các tỉnh miền Trung). Việc khảo sát này đã được
thực hiện đồng bộ cùng lúc với những giàn khoan khác của TQ, đặt rải rác
trong vùng cửa vịnh Bắc Việt.
-
Chuẩn bị cho việc tuyên bố «vùng nhận diện phòng không» của TQ trong
biển Hoa Nam (tức Biển Đông theo VN). Đây là phần quan trọng nhất còn
thiếu trong chiến lược phòng ngự hải dương của TQ.
Sự
hiện diện của giàn khoan HD 981 trong thềm lục địa VN đã đưa lãnh đạo
VN vào thế tiến thoái lưỡng nan, lúng túng. Những tuyên bố mâu thuẫn với
nhau giữa các lãnh đạo tối cao trong thời gian qua cho ta thấy có sự
bất đồng ý kiến sâu xa trong nội bộ đảng về phương pháp ứng xử với TQ.
Dầu vậy, trên quan điểm thuần túy chiến lược, có lẽ phía Trung Quốc đã
tính toán sai mà việc này có thể mở ra cho VN một cơ hội để giải quyết
nhiều khó khăn trong việc lựa chọn đồng minh. Trong khi việc tranh chấp
lãnh thổ với Trung Quốc, về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, đã bị dư luận
thế giới bỏ quên từ bốn thập niên nay, thì được hâm nóng lại.
Từ
lâu, phía TQ một mực phủ nhận mọi hiện hữu về một tranh chấp chủ quyền ở
vùng lãnh thổ này. Vừa qua ta thấy TQ lu loa đưa bằng chứng tố cáo VN
trước Liên Hiệp Quốc. Rõ ràng đây là một «cơ hội» để VN đặt lại toàn bộ
vấn đề chủ quyền Hoàng Sa với Trung Quốc trước dư luận quốc tế. Hành vi
TQ đặt giàn khoan 981 trên thềm lục địa của VN, cũng như tranh chấp chủ
quyền biển đảo, có thể sẽ giải quyết bằng một phương cách có lợi cho
Việt Nam, vừa phù hợp với thực tế lịch sử cũng như quốc tế công pháp.
Tuy vậy VN vẫn án binh bất động.
Phía
TQ vừa tuyên bố cho rút lui giàn khoan HD 981, lý do thời tiết, tránh
cơn bão Rammasun. Hành động này có thể sẽ khép lại cách cửa cơ hội (giải
quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo) của VN.
Thái
độ của VN (xem việc giàn khoan rút lui) như là một chiến thắng (về
ngoại giao) là không phù hợp. Trong vụ này, ngoài Phi lên tiếng ủng hộ
VN, các nước khác trong khối ASEAN đều im lặng, cũng như phần còn lại
của thế giới. Hoa Kỳ và Nhật lên tiếng phản đối TQ trong vụ giàn khoan
HD 981, là vì TQ làm thay đổi nguyên trạng Biển Đông. Việc này đe dọa
cho an ninh và quyền lợi kinh tế của họ (và các nước đồng minh của họ).
Như
đã phân tích, mục tiêu của TQ có nhiều: dò tìm dầu khí, khẳng định chủ
quyền, thăm dò thái độ của VN về đường ranh giới biển và thiết lập vùng
nhận diện phòng không. Bước kế tiếp của TQ chắc chắn sẽ mạnh bạo hơn
giàn khoan 981, sẽ càng làm cho VN khó xử. Vì vậy VN cần phải chuẩn bị
những bước đi thích hợp để đối phó với mọi tình huống có thể xảy ra.
Theo
tôi, không gian cơ hội của VN tuy đang khép lại, nhưng chuyện vẫn còn
đang nóng, VN có thể nắm lấy và khai thác ngay bây giờ, mục đích làm cản
trở mọi dự tính sau này của TQ. Điều quan trọng là VN phải khai thác
«cơ hội» như thế nào?
Dĩ nhiên là vấn đề tranh
chấp biển đảo giữa VN và TQ, VN chỉ có thể có ưu thế nếu đưa vấn đề
tranh chấp ra trước một trọng tài quốc tế. Như thế hồ sơ về chủ quyền là
quan trọng hàng đầu.
Theo tôi, lập trường pháp lý của VN hiện nay có một số điều cần điều chỉnh lại.
1/
Theo quan điểm chính thức của VN hiện nay (cũng như lập trường của hầu
hết học giả VN), VNCH và VNDCCH là hai quốc gia độc lập, có chủ quyền.
Theo
tôi, quan niệm như vậy, VN hôm nay (và VN của thế hệ tương lai) sẽ
không có «tư cách pháp nhân» nào để đứng ra kiện TQ (ra tòa CIJ hay một
Tòa quốc tế nào đó) về các tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa.
Trung
Quốc đã chiếm Hoàng Sa trên tay VNCH (với lý do: giải phóng một vùng
lãnh thổ đang bị ngoại nhân chiếm đóng). VNDCCH là một quốc gia thứ ba,
hoàn toàn xa lạ với VNCH. Còn CP CMLTMNVN không thể kế thừa HS từ VNCH,
vì không thể kế thừa một lãnh thổ đã mất.
(Đó là
chưa nói tới thực thể chính trị MTGPMN được thành lập do một nghị quyết
của đảng CSVN, tức chỉ là một «công cụ» chính trị của VNDCCH.)
Trong
khi đó, «quốc gia» tiền nhiệm VNDCCH đã nhiều lần bày tỏ thái độ (và
lập trường) ủng hộ chủ quyền của TQ tại HS và TS. Công hàm 1958 của Phạm
Văn Đồng là một tuyên bố đơn phương,
nội dung mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS. Một số
những dữ kiện khác như các bài báo, sách vở, tài liệu, bản đồ… do phía
VNDCCH xuất bản củng cố yếu tố đồng thuận (acquiescement)
của công hàm 1958. Tệ hơn cả là vào thời điểm 17-1-1974 lúc TQ chiếm
HS, chính phủ VNDCCH im lặng trong khi các nước như Liên Xô, Mỹ... phản
đối hành vi sử dụng vũ lực của TQ. Hành vi im lặng, đối với công pháp
quốc tế, được hiểu như là sự đồng thuận ám thị (TQ giải phóng một lãnh
thổ bị chiếm đóng). Còn phía MTGPMN tuyên bố rằng các tranh chấp phải
được giải quyết bằng thương thuyết. Thực thể chính trị này (cũng như
VNDCCH) từ chối ký tên chung với VNCH trong bản tuyên bố lên án TQ xâm
lăng.
Khi có tư cách pháp nhân là «quốc gia»,
VNDCCH là đối tượng của công pháp quốc tế. Các hành vi (có thể quy vào
việc từ bỏ chủ quyền HS và TS cho TQ) của VNDCCH cũng sẽ quy thuộc về
phạm vi quốc tế.
Việc kế thừa cũng vậy. Khi nhìn
nhận VNCH và VNDCCH là hai quốc gia «độc lập, có chủ quyền» thì việc kế
thừa, sau 1975, là «kế thừa quốc gia với quốc gia». Quốc gia là đối
tượng của quốc tế công pháp, việc kế thừa quốc gia do đó cũng là vấn đề
thuộc quốc tế công pháp. Quốc gia kế tục (CHXHCNVN) có quyền lợi (cũng
như nghĩa vụ) kế thừa di sản kinh tế và chính trị của hai quốc gia tiền
nhiệm, theo như qui định của luật quốc tế (các Công ước Vienne 1969 và
1978). Giả sử rằng CPLT CHMNVN không gặp khó khăn (về pháp lý) để kế
thừa danh nghĩa chủ quyền HS từ VNCH. Thì quốc gia CHXHCNVN cũng không
thể cùng lúc kế thừa hai lập trường đối nghịch: HS và TS là của VN
(VNCH) và HS TS là của TQ (VNDCCH). Việc kế thừa HS và TS sẽ gặp bế tắc.
Như
vậy, khi cho rằng VNCH (và VNDCCH) là hai quốc gia «độc lập, có chủ
quyền», vấn đề tranh chấp Hoàng Sa sẽ không còn hiện hữu. VN hiện nay
(cũng như các thế hệ VN trong tương lai) sẽ không có cách nào để thuyết
phục dư luận quốc tế rằng «có tranh chấp» tại Hoàng Sa, chứ đừng nói đòi
lại.
2/ Về hiệu lực công hàm 1958 của cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng, chủ trương (chính thức) của VN (cũng như nhiều học
giả VN), công hàm 1958 chỉ nói về hiệu lực hải phận 12 hải lý (chứ không
đề cập đến vấn đề chủ quyền).
Nhìn nhận như thế
là đã mặc nhiên nhìn nhận hiệu lực pháp lý của công hàm này (cho dầu
chỉ nhìn nhận ở nội dung hải phận 12 hải lý).
Về
nội dung công hàm 1958, tác giả của nó là ông Phạm Văn Đồng đã nhìn
nhận: «lúc đó là thời chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy». Dữ kiện
này đã được báo chí quốc tế ghi chép lại (tờ Far Eastern Economic Review
ngày 10-02-1994). Sau này ông Nguyễn Mạnh Cầm cũng có trả lời báo chí,
nội dung tương tự.
Tức là công hàm 1958 nhìn nhận tuyên bố của TQ về hải phận 12 hải lý ở các đảo, kể cả Hoàng Sa và Trường Sa.
Vấn
đề là công pháp quốc tế có luật về «thời hiệu – contemporaneité». Theo
án lệ Tòa Công lý Quốc tế 9-10-1998 về tranh chấp hai nước Yemen và
Erythrée về chủ quyền một số đảo trong biển Hồng Hải. Về số phận đảo
Mohabbakah, Tòa phán giao cho Erythrée với lý do đảo này nằm trong vùng
lãnh hải 12 hải lý của nước này. Bởi vì, theo công ước Lausane được ký
kết giữa các bên liên quan (hay nhà nước tiền nhiệm của các bên), thừa
nhận rằng các đảo nào nằm trong vùng lãnh hải của nước nào thì đảo đó
thuộc về nước đó. Thời kỳ đó lãnh hải chỉ có 3 hải lý. Tòa đã dựa lên lý
thuyết về tính «thời hiệu - contemporanéité», áp dụng hiệu lực lãnh hải
từ 3 hải lý lên 12 hải lý (theo Luật biển 1982), để lấy quyết định này.
Suy
luận tương tự, tuyên bố về hải phận của Trung Quốc năm 1958 phù hợp
Luật biển 1958 (chưa có khái niệm về vùng Kinh tế độc quyền ZEE). Tuyên
bố này sẽ được nhìn nhận hiệu lực chiếu theo nội dung của Luật biển 1982
(có khái niệm về ZEE 200 hải lý). Tức là, ngoài lãnh hải 12 hải lý, bờ
biển và các hải đảo của TQ sẽ được hưởng vùng kinh tế độc quyền (ZEE)
200 hải lý, đúng theo nội dung của Luật biển 1982.
Điều này thể hiện trên thực tế, VN đã tôn trọng như vậy.
Vấn đề là hiệu quả 200 hải lý ZEE có thể áp dụng cho các đảo Hoàng Sa và Trường Sa hay không?
3/
Để hóa giải những bế tắc đem lại do việc chủ trương «có hai quốc gia VN
trong thời kỳ 1954-1976», hay do hiệu lực công hàm 1958, tôi có đề nghị
như sau :
Lãnh đạo VN, cũng như các sử gia, học
giả VN, cần gác bỏ cái lăng kính chính trị để nhìn nhận lịch sử theo
đúng sự thật của nó. Sau đó áp dụng tinh thần Hiệp định Genève 1954 và
Hiệp định Paris 1973, ta sẽ thấy mọi vấn đề về kế thừa về chủ quyền
Hoàng Sa và Trường Sa, hay về hiệu lực công hàm 1958, đều có thể được
giải quyết một cách êm thắm, thuận theo lý lẽ của công pháp quốc tế.
Theo
tinh thần hai hiệp định quốc tế này, hai thực thể chính trị VNCH và
VNDCCH không phải là hai «quốc gia độc lập, có chủ quyền».
Trên
phương diện thực tế và lịch sử, 20 tháng 7 năm 1954, hiệp định Genève
quyết định phân chia quốc gia VN thành hai miền tại vĩ tuyến 17. Hiệp
định nhấn mạnh việc phân chia chỉ tạm thời, đường vĩ tuyến 17 trong bất
kỳ trường hợp nào, không thể xem đó là đường biên giới phân định lãnh
thổ hay chính trị. Hai miền Nam và Bắc lần lượt mang tên Việt Nam Cộng
Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nội dung Hiệp định Genève xác nhận VN
là một nước «độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, có chủ quyền và thống nhất».
Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, do ở phía nam vĩ tuyến 17, do đó thuộc quyền quản lý của VNCH.
Hiệp
định Paris năm 1973 xác định lại nội dung hiệp định Genève 1954: «VN là
một nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, có chủ quyền và thống nhất».
Cả hai hiệp định này đều được bảo trợ của Trung Quốc, cũng như các cường quốc Mỹ, Anh, Pháp…
Năm
1956 VNCH công bố Hiến pháp, điều 1 khẳng định : VN là một nước cộng
hòa, độc lập, thống nhất và bất khả phân. Về phía VNDCCH, Hiến pháp
1946, điều 2 xác định VN là một khối thống nhất bắc, trung, nam không
thể phân chia. Hiến pháp 1959, những dòng đầu đã khẳng định VN là một
nước thống nhất từ Lạng Sơn đến Cà Mau.
Cả hai
miền như vậy đều tôn trọng nội dung hiệp định Genève 1954: Việt Nam là
một quốc gia thống nhất (ba miền) độc lập và có chủ quyền.
Điều
này thể hiện lên thực tế. Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1973,
không có bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nhìn nhận sự hiện hữu của hai
quốc gia Việt Nam. Khối Tư bản nhìn nhận VNCH là đại diện của nước Việt
Nam duy nhất. Khối XHCN công nhận VNDCCH là đại diện nước VN duy nhất.
Nước này nhìn nhận phía này thì không nhìn nhận phía kia, hay ngược lại.
Tức
là, trên thế giới chỉ hiện hữu một quốc gia VN duy nhất. Hai thực thể
VNCH và VNDCCH, nói theo ngôn ngữ công pháp quốc tế, là hai «quốc gia
chưa hoàn tất – Etat partiel».
Ngoài ra, thời
điểm phát xuất công hàm 1958 của cố TT Phạm Văn Đồng, phía VNDCCH vẫn
còn có nguyện vọng thống nhất đất nước. Nhiều lần phía VNDCCH hối thúc
VNCH, cho đến năm 1960, thương nghị giữa hai miền để tiến tới thống nhất
Việt Nam theo nội dung của Hiệp định Genève 1954.
Như vậy, trên quan điểm công pháp quốc tế, nước VN chỉ có một, thống nhất ba miền, toàn vẹn lãnh thổ, độc lập, có chủ quyền.
Trên
tinh thần đó, bất kỳ các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một bên
(VNCH hay VNDCCH), như công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng, cũng như một số
các hành vi khác của VNDCCH trong khoảng thời gian 1954-1976 (có thể
diễn giải là hành vi từ bỏ chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa), vì đe dọa
đến việc toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đi ngược lại nội dung các hiệp
định quốc tế 1954 và 1973, do đó chúng đều không có giá trị pháp lý.
Tức
là công hàm 1958 của cố TT Phạm Văn Đồng được hóa giải một cách dễ
dàng, đúng theo tinh thần trọng luật của công pháp quốc tế.
Về
vấn đề kế thừa, hai thực thể chính trị VNCH và VNDCCH chỉ là hai miền
thuộc về một quốc gia Việt Nam duy nhất, việc kế thừa lại là việc «nội
bộ» của quốc gia, không thuộc phạm vi công pháp quốc tế. Danh nghĩa chủ
quyền của VN tại HS và TS do đó được giữ liên tục, từ thời các vua chúa
VN, sang đến thời thuộc Pháp, thuộc Nhật, hay đồng minh quản lý, cuối
cùng chuyển sang VNCH sau đó là VN hôm nay.
4/
Về vấn đề kiện tụng Trung Quốc về vụ giàn khoan HD 981 cũng như về tranh
chấp chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa, nhiều học giả đã lên tiếng yêu
cầu VN xúc tiến kiện TQ. Nhưng chưa thấy đề nghị nào cụ thể VN sẽ kiện
TQ về cái gì? kiện lên tòa nào?
Kiện tụng là một
việc phiêu lưu, VN có thể thắng, có thể thua. Trong khi phía TQ bảo lưu
ở LHQ sẽ không chấp nhận bất kỳ một trọng tài nào giải quyết tranh chấp
lãnh thổ (hay những vấn đề liên quan đến lãnh thổ). Vì vậy không gian
pháp lý của VN rất là hẹp. Các học giả, luật gia VN cần phải tìm ra giải
pháp kiện thế nào để vừa không bị tòa bác đơn do các bảo lưu của TQ,
vừa không bị thua kiện do hồ sơ quá yếu.
Cá nhân tôi đã có một đề nghị đã công bố, ghi lại ở đây :
VN đệ đơn đề nghị Tòa Công lý Quốc tế (CIJ) tuyên bố một số điều :
- Việc chiếm hữu một lãnh thổ bằng phương pháp vũ lực là vi phạm các nguyên tắc cơ bản của LHQ.
-
Việc chiếm hữu các đảo ở Trường Sa (lập danh sách chi tiết các đảo) năm
1988 bằng vũ lực không đem lại cho Trung Quốc danh nghĩa chủ quyền.
- Việc chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa tháng giêng năm 1974 bằng vũ lực không đem lại cho Trung Quốc danh nghĩa chủ quyền.
Nếu cần thiết (để mở cho Trung Quốc một bước lùi chiến lược), kiện TQ về lý do :
-
Vi phạm nội dung Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Việt 30-12-2000 về việc
chủ trương hiệu lực các đảo, áp dụng cho việc phân định ngoài cửa vịnh
Bắc Việt.
Ba điều đầu tiên yêu cầu Tòa tuyên bố
hoàn toàn thuộc về quyền của quốc gia Việt Nam, là thành viên các công
ước và các nguyên tắc cơ bản của LHQ. Đồng thời việc giải thích nội dung
các điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền của Tòa CIJ. (Các điều ước quốc
tế liên quan gồm : Công ước Drago-Porter 1907, Hiến chương LHQ điều 2
khoản 4 ngày 26-6-1945, hay Tuyên bố của Đại hội đồng LHQ 18-11-1987).
Đặc biệt các yêu cầu này không liên quan đến các bảo lưu của TQ về việc
phân giải tranh chấp chủ quyền bằng trọng tài quốc tế.
Mục
đích việc yêu cầu Tòa tuyên bố, nếu thành công (điểm 3), sẽ đưa quần
đảo Hoàng Sa (không có tranh chấp, theo TQ) vào tình trạng «có tranh
chấp».
Nếu VN thua, tức Tòa không tuyên bố
(không có ý kiến), thì VN cũng không có gì để mất. Trong vụ yêu cầu Tòa
tuyên bố này không hề nói đến chủ quyền các đảo (HS và TS) là của ai, mà
chỉ nói đến việc nhìn nhận hay không nhìn nhận, danh nghĩa chủ quyền
nếu việc chiếm hữu thực hiện bằng vũ lực.
Còn nếu thắng (xác suất thắng là rất cao), VN được nhiều thứ.
Theo
tập quán quốc tế, «đất thống trị biển». Nếu các đảo Hoàng Sa là lãnh
thổ «có tranh chấp» thì vùng biển phát sinh từ nó cũng có tranh chấp.
Vị
trí giàn khoan 981 có thể được xem nằm trong vùng biển «có tranh chấp»
mà tranh chấp này phát sinh từ chủ quyền các đảo HS chứ không phải phát
sinh do chồng lấn hải phận (giữa bờ biển VN với các đảo HS, theo như
lập luận của TQ hiện nay).
Theo thông lệ quốc
tế, nếu lãnh thổ có tranh chấp, việc giải quyết thường là chia hai (hay
cộng đồng khai thác), mỗi bên được một phần của lãnh thổ đó. Tức là,
quần đảo HS có thể chia hai, thí dụ hai nhóm Nguyệt Thiềm và An Vĩnh. VN
có thể nhận nhóm Nguyệt Thiềm (phía tây) và giao cho TQ nhóm An Vĩnh
(phía đông). Hải phận sinh ra do quần đảo này do đó cũng sẽ chia hai.
Đó là cái lợi thứ nhất.
Cái
lợi thứ hai ở Trường Sa. Nếu tòa tuyên bố, thì TQ không có chủ quyền
tại các đảo của VN tại TS. TQ sẽ không thể tuyên bố vùng «nhận diện
phòng không» trong khu vực này được.
Cái lợi thứ
ba, là VN dành được tính «chính đáng». Nhiều người cho rằng các phán
quyết của Tòa cũng không làm gì, nếu TQ không tuân thủ.
Theo
tôi, phán quyết của Tòa có tầm quan trọng rất lớn. Trong vụ giàn khoan
HD 981, nếu TQ không rút giàn khoan, VN có thể dùng các biện pháp để bảo
vệ quyền lợi của mình. Việc «bảo vệ» ở đây mang tính tự vệ chính đáng,
được hiến chương LHQ công nhận.
Đây là một việc
làm ít tốn kém, đáng lẽ không cần phải đưa ra một tổ hợp luật sư nào.
Tuy nhiên, để nắm chắc phần thắng, đơn không bị bác do lỗi thủ tục, VN
nên thông qua một tổ hợp luật sư chuyên môn ở HK.
5/
Lá thư của ông Lê Hoài Trung, Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền của VN tại
LHQ, gởi TTK LHQ ngày 3-7-2014 vừa qua, nội dung cho thấy đã có một số
thay đổi sâu sắc về lập trường chính thức của VN về chủ quyền quần đảo
Hoàng Sa.
Điểm thứ nhất, nhà nước CHXHCNVN hôm
nay đã lấy làm tài liệu (các hành vi hành sử chủ quyền) của quốc gia VN
tại HS và TS trong quá khứ. Điển hình nhắc lại lời tuyên bố của Thủ
tướng Trần Văn Hữu tại Hội nghị San Francisco 1951.
Tại
Hội nghị San Francisco, Quốc gia VN tham dự do Hoa Kỳ mới, với tư cách
một quốc gia độc lập, «có tuyên bố chiến tranh với Nhật».
Việt
Nam là một bên ký kết với Nhật hiệp ước hòa bình San Francisco 1951.
Nhật đã phải bồi thường chiến tranh cho VN, bằng các hình thức viện trợ
và công trình xây dựng (như đập thủy điện Đa Nhim).
Điều
này khẳng định tư cách pháp nhân của quốc gia Việt Nam (độc lập, có chủ
quyền) ở thời điểm đó, trước sân khấu quốc tế. Điều này quan trọng,
tuyên bố của ông Trần Văn Hữu có giá trị pháp lý hay không là do tư cách
pháp nhân của Quốc gia VN trước Hội nghị.
Thứ
hai, cũng trong thư này ông Lê Hoài Trung đã sử dụng các ý kiến của tôi
đã bộc lộ trên facebook, blog… trước đây (được viết lại trong bài này):
dùng hiệu lực của các hiệp định Genève 1954 và Paris 1973 để hóa giải
hiệu lực công hàm 1958 cũng như nhấn mạnh việc chiếm hữu lãnh thổ bằng
vũ lực, theo công pháp quốc tế, sẽ không đem lại chủ quyền cho TQ.
Dĩ
nhiên đây là điều hãnh diện cho cá nhân, nhưng tôi cho rằng công việc
sẽ chẳng đi đến đâu, nếu VN không nhanh chóng dành lấy “cơ hội” này để
đưa tranh chấp ra một tòa án quốc tế.
Trương Nhân Tuấn.
http://nhantuantruong.blogspot.fr/2014/07/thu-ua-mot-giai-phap-nham-giai-quyet.html
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire