mercredi 29 avril 2020

Công hàm 1958 không công nhận chủ quyền TQ với Hoàng Sa và Trường Sa

PLS : Anh Phạm Bình Minh, anh nghe em nói !

Anh trả lời LHQ về vụ Trung Quốc đưa công hàm Phạm Văn Đồng lên LHQ như vầy nè (em mời ngài Trương Nhân Tuấn review) :

"Công hàm của ông PVĐ không có giá trị về mặt pháp lý đối với việc thừa nhận (hay không) hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bởi vì theo Hiệp Định Genève, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà không có thẩm quyền đối với hai quần đảo ấy, mà chúng thuộc về thẩm quyền của Việt Nam Cộng Hoà."

Đấy là lý lẽ mạnh nhất và hoàn toàn hợp pháp về mặt luật pháp quốc tế, kỳ này mình hạ gục Trung Quốc luôn ! Còn về hệ luỵ về sau, thì anh nói các ông lãnh đạo nhà mình đừng lo. Bởi vì người duy nhất đại diện hợp pháp cho Việt Nam Cộng Hoà là ông Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, mà ông ấy thì đã chết rồi, ông ấy sẽ không đòi hỏi gì được nữa, cho nên mình có thừa nhận Việt Nam Cộng Hoà, thì cũng không có gì suy suyển, thay đổi cả. Còn nếu mình muốn hoà giải dân tộc, thì mình đền bù cho các goá phụ của các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hoà, thì cũng không có bao nhiêu đâu. Và nếu mà nhờ Việt Nam Cộng Hoà mà mình giữ được cả hai quần đảo ấy, thì việc đền bù hoà giải với họ cũng là việc nên làm chứ ?

(Bác Trọng, em nghĩ việc này sẽ chỉ càng làm cho Việt Nam vững mạnh hơn mà thôi, và Sấm Trạng Trình có nói điều ấy rồi !)



Thưa các bác, đêm qua tôi nằm suy nghĩ, chợt thấy sáng rõ như ban ngày !

Các bác có đọc cái Công hàm PVĐ chưa ? Lời lẽ của nó rất đặc biệt, giản dị và rõ ràng, nhưng tôi vẫn cảm thấy ông Đồng có một cái ẩn ý gì đấy !


Bây giờ thì tôi đã hiểu ra rồi !

Ông Đồng đã không đả động gì đến quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chỉ đơn giản là về mặt luật pháp (và luật pháp quốc tế), ông ấy không có được cái thẩm quyền ấy. Ví dụ như bây giờ ta hỏi Thái Lan về việc chủ quyền của họ đối với Hoàng Sa và Trường Sa, thì tất nhiên là họ chẳng cần trả lời gì cả, vì điều đó không thuộc thẩm quyền của họ. Như vậy việc ông Đồng chỉ trả lời về vụ 12 hải lý của Trung Quốc là hoàn toàn đúng đắn và chấm hết ! 


Và ngụ ý của ông Đồng, và ông Hồ Chí Minh là gì, các bác biết không ? Là các ông ấy muốn rằng, sau khi thống nhất đất nước, thì sẽ hoà giải dân tộc, và chỉ khi ấy, thì Hoàng Sa và Trường Sa sẽ thuộc về Việt Nam. Các ông ấy đã ra một cái Công Hàm khéo léo, tinh tế như vậy, thật là thiên tài !

Các ông ấy đã mở tất cả mọi con đường để con cháu sau này giành được độc lập, thống nhất, toàn vẹn chủ quyền, hoà hợp dân tộc, phát triển đất nước. Thật là những con người cao quý, phi thường !

Bác Trọng, em nghĩ rằng bác là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, em tin là bác hiểu được tâm nguyện của Người !


Bởi vì, mới gần đây, em đọc vài bài phỏng vấn của ông Chí Vịnh, cái bài mới nhất nó rất là kinh khủng. Ông ấy nói là ta ĐÃ HOÀ GIẢI, HOÀ HỢP RỒI !  Như vậy nghĩa là gì các bác biết không ? Nghĩa là sẽ không có gì khác nữa, không có thừa nhận Việt Nam Cộng Hòa, nghĩa là (phe) ông ấy quyết bán đứng toàn bộ biển đảo cho Trung Quốc mãi mãi, và quyết không phủ nhận giá trị pháp lý của Công Hàm Phạm Văn Đồng đối với việc từ bỏ Hoàng Sa, Trường Sa. Ông Chí Vịnh, ông nghĩ là cha ông là ông Nguyễn Chí Thanh có đồng ý với ông không ?


Thưa các bác, xin các bác theo dõi chặt chẽ diễn biến vụ này, đừng để con cháu Trần Ích Tắc đổ toàn bộ công lao của cha ông xuống biển. Đây là thời cơ ngàn năm có một, chúng ta sẽ giành lại cả Trường Sa và Hoàng Sa, chúng ta quyết không được bỏ lỡ. Nếu Trung Quốc tuyên bố chiến tranh, thì các bác phải bằng mọi giá phá sập cái đập Tam Hiệp !

Mong các bác sáng suốt, bảo trọng !


 


Công hàm 1958 không công nhận chủ quyền TQ với Hoàng Sa và Trường Sa

27 tháng 4 2020









Bản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng năm 1956

Trao đổi với BBC News Tiếng Việt hôm 26/4, nhà nghiên cứu Raul Pedrozo, chuyên gia luật quốc tế từng nhiều năm làm việc cho Hải quân Mỹ, nói rằng công hàm Phạm Văn Đồng không cho thấy Việt Nam từ bỏ Hoàng Sa và Trường Sa.
Hôm 17/4, Trung Quốc viện dẫn công hàm do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký năm 1958 gửi Thủ tướng Chu Ân Lai như bằng chứng cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa. Trong công hàm mới được gửi lên Liên Hiệp Quốc (LHQ), Trung Quốc khẳng định cộng đồng quốc tế và cả chính phủ Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Bắc Kinh đối với các quần đảo này.
Thêm nữa, Trung Quốc còn cho rằng sau năm 1975, Việt Nam đã vi phạm nguyên tắc không phủ nhận (estoppel) trong luật quốc tế vì đã có yêu sách trái phép đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Cùng lúc Bắc Kinh đưa ra các cáo buộc nói Việt Nam xâm phạm chủ quyền, xâm chiếm biển, đảo.
Đáp lại, ông Ngô Toàn Thắng, phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, hôm 23/4 lên tiếng: "Việt Nam đã giao thiệp với Trung Quốc để khẳng định mạnh mẽ lập trường nhất quán của Việt Nam, bác bỏ quan điểm sai trái của Trung Quốc."

Công hàm 1958 "không thừa nhận chủ quyền của TQ"

Tiếp xúc với BBC News Tiếng Việt hôm 26/4, ông Raul Pedrozo, giáo sư luật quốc tế, cố vấn luật của Bộ tư lệnh Thái Bình Dương, Hoa Kỳ, nói:
"Theo ý kiến của tôi, lá thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai liên quan đến tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc vào tháng 9/1958 chỉ đơn giản là để bày tỏ sự ủng hộ đối với tuyên bố lãnh hải rộng 12 hải lý mà Trung Quốc đưa ra. Nó không hề mang nghĩa thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa và Trường Sa".
Ông Raul Pedrozo từng phục vụ trong Hải quân Mỹ, là cựu giáo sư luật quốc tế của Đại học Chiến tranh Hải quân (U.S. Naval War College). Ông là cố vấn luật quốc tế của Bộ tư lệnh Thái Bình Dương, trợ lý đặc biệt của Thứ trưởng phụ trách chính sách Bộ Quốc phòng. Năm 2014, ông đã công bố công trình dày 142 trang về tranh chấp tại Biển Đông, trong đó có phân tích công hàm Phạm Văn Đồng.
Chuyên gia Việt Nam bác bỏ luận cứ Trung Quốc về công hàm Phạm Văn Đồng
Biển Đông: Bước tiến mới dọn đường của Trung Quốc?
Theo ông Raul Pedrozo, năm 1988, Chính phủ Việt Nam đã thừa nhận có sự tồn tại của công hàm Phạm Văn Đồng nhưng Bộ Ngoại giao đã có giải thích về bối cảnh lịch sử của các tuyên bố trong đó. Cụ thể, trong bối cảnh chiến tranh khi Mỹ có thể chiếm hai quần đảo này để làm bàn đạp tấn công thì việc tuyên bố như vậy chỉ là giải pháp tình thế. Lúc bấy giờ, Việt Nam chân thành tin tưởng Trung Quốc và tin rằng sau chiến tranh thì mọi tranh chấp về lãnh thổ giữa hai nước sẽ được giải quyết.




Bản quyền hình ảnh Raul Pedrozo
Image caption Ông Raul Pedrozo, giáo sư luật quốc tế, cố vấn luật của Bộ tư lệnh Thái Bình Dương, Hoa Kỳ
Ông Raul Pedrozo phân tích thêm:
"Nam Việt Nam (với tư cách kế thừa Pháp), chứ không phải Bắc Việt Nam, là bên đang quản lý Hoàng Sa và Trường Sa vào năm 1958. Hiệp định Geneva 1954 phân chia Bắc và Nam Việt Nam tại vĩ tuyến 17 để chờ cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Hoàng Sa và Trường Sa đều nằm phía nam vĩ tuyến 17; do đó, cả hai quần đảo đều thuộc quyền quản lý của Nam Việt Nam. Vì vậy, Bắc Việt Nam không có cả danh nghĩa lẫn chủ quyền trên thực tế đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và không ở vào vị trí có thể từ bỏ các vùng lãnh thổ trên. Tóm lại, Bắc Việt Nam chẳng có gì để từ bỏ."
Trao đổi qua email với BBC News Tiếng Việt ngày 25/4, Tiến sĩ Dương Danh Huy từ Quỹ Nghiên cứu Biển Đông cũng cho rằng những gì Thủ tướng Phạm Văn Đồng hay Bộ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm của chính phủ vào thời điểm năm 1958 đều không có giá trị pháp lý để thay đổi về chủ quyền lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 17.
VN 'quá rụt rè trước TQ' trong vấn đề Biển Đông
Biển Đông: Ai sẽ liên minh và hậu thuẫn Việt Nam?
Ông Huy phân tích: "Trước hết, có thể khẳng định rằng vào năm 1958 không có một nước Việt Nam thống nhất như bây giờ, và lúc đó nói chung chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) không được thế giới cho là có thẩm quyền đối với phía nam vĩ tuyến 17, không được thế giới cho là có trách nhiệm pháp lý phải khẳng định chủ quyền lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 17."
"Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải quan tâm đến khía cạnh động thái đó và các động thái tương tự của chính phủ đó có ý nghĩa pháp lý gì khi VNDCCH và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thống nhất thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1976".

Nguyên tắc Estoppel có áp dụng?

Estoppel là quy tắc về bằng chứng, theo đó, một quốc gia không được phép phủ nhận sự thật về điều mà trước đây họ đã tuyên bố hoặc về những sự kiện mà họ cho là có thật.
Theo ý kiến của ông Raul Pedrozo, estoppel đã được Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) sử dụng để giải quyết một số tranh chấp chủ quyền. Tuy nhiên, ông cho rằng nguyên tắc này của tòa ICJ khi liên hệ với tranh chấp tại Hoàng Sa không ủng hộ lập trường của Trung Quốc xét trong mối liên hệ với Việt Nam.
Ông phân tích: "ICJ chỉ áp dụng estoppel trong một số vụ giới hạn khi mà hội đủ các yếu tố: (1) đó là các tuyên bố, phát biểu hoặc trình bày (hoặc được thực thi trong quá khứ) nhất quán do một bên thực hiện với bên kia (2) phải dựa trên sự tổn hại của phía bên kia hoặc tạo lợi thế cho bên đưa ra phát biểu."
"Trung Quốc không cung cấp đủ bằng chứng để hội đủ các yếu tố trên. Lá thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai đơn giản bày tỏ sự ủng hộ đối với tuyên bố mở rộng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, không phải là sự công nhận chủ quyền Trung Quốc đối với các quần đảo ở Biển Đông. Không có gì nghi ngờ, lá thư không đại diện cho một sự công nhận 'rõ ràng và nhất quán' đối với chủ quyền của các quần đảo tại Biển Đông và do đó không thể đáp ứng yếu tố đầu tiên của estoppel," ông Pedrozo nhận định.




Bản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Ông Raul Pedrozo (ngồi giữa) trong sự kiện An ninh hàng hải quốc tế tại Malaysia 2007 với tư cách là Cố vấn luật của Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Mỹ. Bìa trái là Tham mưu trưởng quân đội Malaysia Abdul Aziz Zainal, bìa phải là Phó Thủ tướng Malaysia Najib Razak đang phát biểu.
"Hơn thế nữa, không có bằng chứng cho thấy Trung Quốc sử dụng lá thư của Chu Ân Lai để bày tỏ sự tổn hại của họ - từ năm 1949, CHND Trung Hoa đã liên tục tuyên bố chủ quyền không tranh cãi của họ đối với các đảo ở Biển Đông và đã phản đối hoặc hành động chống lại mọi yêu sách chủ quyền của các quốc gia khác và đã tiến hành tấn công các đảo ở Biển Đông. Do đó, nguyên tắc estoppel không thể được áp dụng cho các tranh chấp hiện tại", ông Raul diễn giải thêm.
Tiến sĩ Dương Danh Huy đánh giá:
"Năm 1958, chính phủ VNDCCH không được thế giới nói chung cho là có thẩm quyền đối với phía nam vĩ tuyến 17. Vì VNDCHH vừa không có thẩm quyền, vừa không có trách nhiệm pháp lý phải khẳng định chủ quyền, công hàm đó không phải là để trả lời Trung Quốc về chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, cũng không nói trực tiếp về hai quần đảo đó, thì dù câu chữ của công hàm đó có được diễn giải thế nào cũng không hội tụ được các điều kiện của estoppel để ràng buộc VNDCCH".

'Covid-19 là thời cơ cho Trung Quốc'

Lý giải vì sao Trung Quốc lại đưa công hàm lên LHQ vào thời điểm dịch Covid-19, ông Dương Danh Huy cho rằng:
"Từ khi tình hình Biển Đông nóng lên từ năm 2007, 2008 tới nay, chưa có khi nào bất lợi và nguy hiểm cho Việt Nam như hiện nay. Đây là thời cơ tốt cho Trung Quốc lấn lướt, thậm chí lấn chiếm ở Biển Đông".
"Việc họ gửi công hàm cho Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa chỉ là hệ quả của việc Malaysia đệ trình về ranh giới ngoài của thềm lục địa vào tháng 12/2019. Tuy nhiên, việc họ đưa công hàm Phạm Văn Đồng vào vấn đề và vào một công hàm được chuyển đến các nước thành viên LHQ là điều đáng suy nghĩ".




Bản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tiếp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tháng 11/2017 ở Hà Nội
Ông Huy đưa ra các khả năng: "Đó có phải là một sư leo thang tranh biện bình thường? Hay họ dồn Việt Nam vào chân tường để Việt Nam phải lộ ra phần nào lập luận pháp lý của mình? Hay họ dọn đường dư luận cho động thái kế tiếp nào đó?".
Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm: 'TQ lợi dụng dịch Covid-19 để đẩy mạnh độc chiếm Biển Đông'
Ngư dân VN bị chìm tàu ở Hoàng Sa: ‘Chỉ mong sống sót trở về’
"Nhưng cũng có thể là Trung Quốc biết họ đã thua cuộc tranh biện trong việc đòi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa cho Trường Sa cũng như trong việc đòi quyền lịch sử trong vùng đặc quyền kinh tế, và Việt Nam, Philippines và Malaysia lại có cùng quan điểm trong vấn đề đó, cho nên họ muốn lái cuộc tranh biện sang phạm trù tranh chấp các đảo, nhằm vừa tránh nhược điểm của mình, vừa chia rẽ ba nước đối phương kia, vừa nhấn mạnh khía cạnh tranh chấp chủ quyền để cản trở đệ trình của Malaysia", ông nhận định.

https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-52436998

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire