Vì sao cần bàn về tính quốc gia của VNCH và tính chất pháp lý của việc thống nhất đất nước
Dương Danh Huy và Phạm Thanh Vân
Quỹ Nghiên cứu Biển Đông 
Có chủ quyền, vẫn có thể bị mất
Dù
 cho một nước đã có chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ, nếu sau đó nước
 này bỏ ngỏ cho nước khác tranh chấp, lại còn không duy trì chủ quyền 
của mình trong khi nước thứ nhì có động thái để xác lập chủ quyền, thì 
nước thứ nhất có thể bị mất chủ quyền.
Có thể 
thấy điều này rất rõ trong phiên Tòa xử tranh chấp cụm đảo Pedra Branca,
 Middle Rocks và South Ledge giữa Malaysia và Singapore năm 2008[1].
Tòa
 án Công lý Quốc tế cho rằng ban đầu Malaysia có chủ quyền đối với đảo 
Pedra Branca. Tòa còn cho rằng công hàm 1953 của Johor, nay là một tiểu 
bang của Malaysia, trả lời Singapore rằng Johor không đòi chủ quyền trên
 đảo này, không có tính chất pháp lý cơ bản[2], cũng như không có tính ràng buộc đối với Johor[3].
 Nhưng Tòa lại dựa vào việc trước và sau đó Johor và Malaysia không 
khẳng định chủ quyền, và Tòa đã dùng công hàm 1953 của Johor như một 
trong những chứng cớ quan trọng cho việc Malaysia không đòi chủ quyền, 
để kết luận rằng tới năm 1980 chủ quyền đã rơi vào tay Singapore[4].
Bài
 học cho chúng ta là mặc dù cho tới 1954 Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt
 Nam, vẫn có tiềm năng là công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng (CH PVĐ) 
đã tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho yêu sách của Trung Quốc, và nếu 
Việt Nam đã không khẳng định chủ quyền trước yêu sách đó thì Việt Nam 
vẫn có thể bị mất chủ quyền.
Vì vậy, chúng ta phải nghiên cứu và phân tích thấu đáo về vấn đề duy trì chủ quyền sau 1954.
Thế
 nhưng đây lại là một thiếu sót lớn trong truyền thông Việt Nam. Truyền 
thông Việt Nam đăng tải nhiều về chứng cứ chủ quyền của Việt Nam thời 
quân chủ, nhưng ít đăng phân tích sâu về việc duy trì chủ quyền sau 
1954. Như vậy giống như xem phim tập đầu mà không xem tập cuối: sẽ không
 thể biết kết quả ra sao. Tệ hơn, nó có thể làm cho chúng ta chủ quan.
Không khó hiểu lý do cho sự thiếu sót trên.
Nếu
 phân tích về vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa trong giai đoạn 1954-1975, sẽ 
không tránh được sự thật là trong giai đoạn đó VNDCCH đã tiêu cực đối 
với Hoàng Sa, Trường Sa. Mặc dù trên diện pháp lý có thể biện luận rằng 
VNDCCH không có nghĩa vụ hay quyền hạn gì đối với Hoàng Sa, Trường Sa, 
khó có thể cho rằng VNDCCH không có nghĩa vụ luân lý gì trong việc giúp 
dân tộc Việt bảo vệ chủ quyền đối với hai quần đảo đó cho đến ngày nào 
đó đất nước thống nhất. Có người có thể sợ rằng điều này sẽ làm mất đi 
phần nào hào quang của VNDCCH. Dù sao đi nữa, chúng ta cần lưu ý rằng 
VNDCCH không phải là CHXHCNVN, và nếu VNDCCH có đã tiêu cực về Hoàng Sa,
 Trường Sa thì điều đó là độc lập với CHXHCNVN có tiêu cực hay không.
Phân
 tích về vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa trong giai đoạn 1954-1975 còn có 
những hệ quả lô gíc có thể bị cho là trái lề chính trị. Thí dụ, khi TT 
Nguyễn Tấn Dũng viện dẫn sự khẳng định chủ quyền của chính quyền VNCH 
đối với Hoàng Sa, Trường Sa, thì lô gíc dẫn đến những câu hỏi sau.
1. Chính quyền VNCH có thẩm quyền để khẳng định chủ quyền lãnh thổ trên trường quốc tế không?
2. Để có thẩm quyền trên, chính quyền VNCH phải là đại diện của một quốc gia trong luật quốc tế. Vậy khi chính quyền VNCH còn tồn tại, chính thể đó có phải là đại diện của một quốc gia trong luật quốc tế không?
3.
 Nếu không thì thế nào mà sự khẳng định chủ quyền của chính quyền VNCH 
đối với Hoàng Sa, Trường Sa có giá trị trong luật quốc tế?
4.
 Nếu sự khẳng định chủ quyền của chính quyền VNCH đối với Hoàng Sa, 
Trường Sa không có giá trị pháp lý thì từ 1954 đến 30/4/1975 có đại diện
 pháp lý nào của quốc gia Việt nào đã khẳng định chủ quyền trên hai quần
 đảo này không?
Có thể có người sợ rằng việc đặt
 vấn đề “có phải đã từng có hai quốc gia” cũng như “có phải chính quyền 
VNCH đã từng là đại diện pháp lý của một quốc gia” sẽ dẫn đến một số câu
 hỏi. Thậm chí còn có thể có những chuyện chụp mũ kiểu "Anh nói là có
 2 quốc gia, anh nói chính quyền VNCH đã từng là đại diện pháp lý, vậy 
là anh muốn khôi phục VNCH, vậy là anh là phản động, vậy là anh muốn 
chia đôi đất nước lần nữa". Nhưng đó chỉ là một sự chụp mũ. Nếu cho 
rằng trước 1976 và 1975 có hai quốc gia, nếu cho rằng trước 30/4/1975 
chính quyền VNCH đã từng là đại diện pháp lý của một quốc gia thì đó chỉ
 là một nhận định về quá khứ, không có nghĩa muốn chia đôi đất nước đã 
thống nhất năm 1976, và không có nghĩa muốn khôi phục VNCH hay CHMNVN.
Ở
 đây chúng ta cần lưu ý rằng câu hỏi thứ nhì là trong phạm trù luật quốc
 tế, không phải là một câu hỏi về các vấn đề chính trị, chính nghĩa của 
các chính thể VNCH, VNDCCH.
Khái niệm "quốc gia"
 ở đây là một thuật ngữ pháp lý, tiếng Anh là State, tiếng Pháp là État,
 được định nghĩa trong Công ước Montevideo 1933 là một chủ thể có lãnh 
thổ, dân cư, chính phủ và khả năng có quan hệ ngoại giao với các quốc 
gia khác[5].
 Nó phải được quán chiếu trong phạm trù luật quốc tế. Khái niệm "quốc 
gia" trên phương diện pháp lý khác với khái niệm đất nước và tổ quốc, 
thậm chí khác với cách hiểu bình dân về từ “quốc gia”.
“Quốc
 gia” khác với “đất nước” hay “nước”, vốn là một khái niệm địa lý, bao 
gồm một vùng lãnh thổ với dân cư, và cũng khác với “tổ quốc”, vốn là một
 khái niệm dựa trên lịch sử. 
“Quốc gia” cũng 
khác với “nhà nước”. Nhà nước là tổ chức chính trị để đại diện, lãnh đạo
 và cai quản quốc gia, chứ không phải là quốc gia. Một nhà nước cộng hòa
 thường có ba hệ thống: lập pháp (thí dụ như quốc hội), hành pháp (chính
 phủ) và tư pháp (hệ thống tòa án)[6].
“Quốc
 gia” cũng khác với “chính phủ”: chính phủ là cơ quan hành pháp của nhà 
nước. Khi CP VNDCCH không công nhận rằng CP VNCH là đại diện hợp pháp 
phía nam vĩ tuyến 17 thì điều đó không có nghĩa là CP VNDCCH không công 
nhận rằng có một quốc gia phía nam vĩ tuyến 17. Hơn nữa, theo Công ước 
Montevideo 1933, sự hiện hữu của một quốc gia không dựa vào sự công nhận
 của các quốc gia khác[7].
Tương
 tự, “đại diện của một quốc gia trong luật quốc tế” là một vấn đề trong 
phạm trù luật quốc tế độc lập với các vấn đề chính trị, chính nghĩa của 
các chính quyền VNCH, chính quyền VNDCCH và chính quyền CHMNVN.
Chúng
 ta nên giữ câu hỏi thứ nhì trong phạm trù luật quốc tế của nó, và tuyệt
 đối không nên chụp mũ, để có một môi trường tốt hơn cho việc thảo luận 
và nghiên cứu về về vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa trong giai đoạn 
1954-1975.
Trên thực tế, quan điểm chính thức 
của VNDCCH và CHMNCH là trước khi VNDCCH và CHMNVN thống nhất lại thành 
CHXHCNVN trong quá trình từ 25/4/1976 đến 2/7/1976 thì hai chính thể đó 
là hai quốc gia[8]. 
Ngày 30/4/1975 CPCMLT CHMNVN tuyên bố
“Chính
 phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt-nam hiện nay thực hiện 
chủ quyền trên toàn vẹn lãnh thổ của mình trên toàn bộ miền Nam Việt 
Nam, là người đại diện chân chính và hợp pháp duy nhất của nhân dân miền
 Nam Việt-Nam, có đầy đủ quyền hành giải quyết những vấn đề quốc tế của 
miền Nam Việt-nam.”[9]
Với
 một tuyên bố về lãnh thổ, dân cư và quan hệ quốc tế như vậy, rõ ràng là
 CPCMLT CHMNVN khẳng định rằng miền Nam là một quốc gia như được định 
nghĩa trong Công Ước Montevideo, và VNDCCH cũng đã không phản đối sự 
khẳng định đó.
Nhưng nếu từ 30/4/1975 đến 
2/7/1976 có hai quốc gia thì dĩ nhiên là đã có hai quốc gia từ trước 
30/4/1975, vì sẽ hoàn toàn vô lý nếu cho rằng trước 30/4/1975 chỉ có một
 quốc gia nhưng sau 30/4/1975 thì thành hai quốc gia. Không lẽ ngày 
30/4/1975 lại là ngày đất nước chia đôi từ một quốc gia thành hai quốc 
gia? Vì vậy, quan điểm cho rằng trước 1976 và 1975 có hai quốc gia không
 có gì là phản động hay đáng ngạc nhiên - nó là quan điểm chính thức của
 VNDCCH, CHMNVN và CHXHCNVN mà ngày nay bị nhiều người lãng quên, và có 
người vì lãng quên cho nên tiêu cực về nó.
Ngoài
 khó khăn chính trị liên quan đến câu hỏi thứ nhì, còn có khía cạnh con 
người. Những cựu chiến binh VNDCCH của cuộc chiến 1954-1975 và gia đình 
của những người đã hy sinh trong cuộc chiến đó sẽ nghĩ gì về câu hỏi “Khi chính quyền VNCH còn tồn tại, nó có phải là đại diện của một quốc gia trong luật quốc tế không?”, và nếu trả lời cho câu hỏi đó là “Có” thì họ sẽ nghĩ gì?
Nhưng
 nếu chúng ta cho rằng khi chính quyền VNCH còn tồn tại, nó không phải 
là đại diện cho một quốc gia nào trong luật quốc tế, thì làm sao có thể 
khẳng định rằng sự khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa của 
chính quyền đó là có giá trị pháp lý?
Chúng ta 
có thể đánh giá lịch sử, cụ thể là đánh giá VNDCCH, một cách khoa học, 
khách quan và tự do hay chưa? Chúng ta có thể nhìn nhận rằng VNDCCH có 
thể đã làm những điều đúng, những điều sai, những điều phù hợp với luật 
quốc tế, những điều không phù hợp, hay không? Ở đây cần nhấn mạnh rằng 
nhìn nhận đó không phủ nhận giá trị của việc thống nhất đất nước. Hay là
 chúng ta vẫn phải một bên thì bảo vệ hình ảnh thần tượng hóa của 
VNDCCH, và bên kia thì quỷ sứ hóa chính thể đó?
Để
 minh họa tại sao lại phải phân tích về giai đoạn sau 1954, tại sao cần 
phải nghiên cứu về có phải VNCH và VNDCCH đã từng là hai quốc gia không,
 tại sao cần phải nghiên cứu về tính pháp lý của việc thống nhất đất 
nước, chúng tôi sẽ trình bày kịch bản giả định sau:
● Việt Nam và Trung Quốc ra Tòa về Hoàng Sa.
● Tòa bác bỏ những chứng cứ hoang đường, mơ hồ trong cổ sử của Trung Quốc.
●
 Tòa công nhận rằng các hành động chủ quyền của Việt Nam trong thời quân
 chủ đã làm cho chủ quyền đối với Hoàng Sa thuộc về Việt Nam.
● Tòa cho rằng Pháp đã duy trì chủ quyền Việt Nam, và cho tới 1954 thì Hoàng Sa vẫn là của Việt Nam.
●
 Trung Quốc vin vào CH PVĐ và các hành vi của VNDCCH để tiếp tục tranh 
cãi về giai đoạn từ năm 1954 trở đi. Trong luật quốc tế, có ba nguyên 
tắc có thể làm cho Việt Nam mất chủ quyền: recognition (công nhận chủ 
quyền của nước khác), estoppel (bị ngăn cản không được dùng dẫn chứng 
cho chủ quyền của mình) và acquiescence (từ bỏ chủ quyền của mình)[10], và Trung Quốc vận dụng những nguyên tắc này.
1. Trung Quốc: Việt Nam đã công nhận chủ quyền Trung Quốc (recognition). Dẫn chứng là CH PVĐ, các phát ngôn và tài liệu của VNDCCH.
2. Việt Nam: Các dẫn chứng đó không có giá trị pháp lý như một sự công nhận (recognition).
[Trên
 thực tế, báo Nhân Dân, các NXB sách vở, bản đồ, v.v., và ông Ung Văn 
Khiêm đều không có thẩm quyền để đại diện cho quốc gia về lãnh thổ. 
Trong những tác giả của các dẫn chứng mà Trung Quốc dùng, theo luật quốc
 tế thì chỉ có ông Phạm Văn Đồng là có thẩm quyền, nhưng theo luật quốc 
tế thì CH PVĐ không phải là sự công nhận. GS luật quốc tế Monique 
Chemiller-Gendreau cũng cho rằng CH PVĐ không phải là sự công nhận[11].]
3. Trung Quốc:
 CH PVĐ và các tài liệu/phát ngôn của VNDCCH có tính ràng buộc pháp lý 
và cũng đã tạo ra một estoppel ngăn cản không cho Việt Nam đòi Hoàng Sa.
4. Việt Nam:
 CH PVĐ và các tài liệu/phát ngôn đó không có tíng ràng buộc pháp lý, và
 cũng không hội tụ được nhiều điều kiện của estoppel, eg, CH PVĐ không 
nói cụ thể về Hoàng Sa, Trường Sa, Trung Quốc đã không dựa trên CH PVĐ 
để có hành động có thiệt hại cho mình (detrimental reliance).
[Theo
 luật quốc tế, có khi tuyên bố đơn phương có tính ràng buộc cho bên 
tuyên bố, có tuyên bố đơn phương không có tính ràng buộc[12],
 có khi gây ra estoppel, có khi không. Chúng tôi cho rằng CH PVĐ không 
hội tụ đủ các điều kiện để có tính ràng buộc hay gây ra estoppel cho 
Việt Nam về Hoàng Sa, Trường Sa[13].
Thí
 dụ như trong phiên Tòa xử tranh chấp cụm đảo Pedra Branca, Middle Rocks
 và South Ledge, Tòa án Công lý Quốc tế đã không công nhận rằng công hàm
 của Johor nói Johor không đòi chủ quyền đối với đảo Pedra Branca có 
tính ràng buộc, cũng như không công nhận quan điểm của Singapore cho 
rằng công hàm đó đã gây ra estoppel.
TS Từ Đặng Minh Thu cũng có phân tích cho rằng CH PVĐ không hội tụ đủ các điều kiện của Estoppel[14].]
5. Trung Quốc:
 Đó là từ bỏ chủ quyền (acquiescence). Dẫn chứng là Việt Nam đã im lặng,
 và tới giữa thập niên 70 mới lên tiếng. Bất kể ban đầu Việt Nam có chủ 
quyền hay không, trong khi chúng tôi đòi chủ quyền và chiếm giữ mà Việt 
Nam im lặng bấy lâu thì sau đó Việt Nam cũng không có.
[Trong
 phán quyết năm 2008 về tranh chấp cụm đảo Pedra Branca giữa Malaysia và
 Singapore, mặc dù Tòa án Công lý Quốc tế cho rằng ban đầu Malaysia có 
chủ quyền đối với đảo Pedra Branca. Nhưng sau đó chủ quyền này đã mất 
vào tay Singapore do phía Malaysia đã không làm đủ để duy trì chủ quyền 
khi Singapore có những động thái nhằm xác lập chủ quyền trong giai đoạn 
sau này.
Sự im lặng của Thái Lan đối với các 
động thái ngoại giao của Campuchia nhằm khẳng định chủ quyền đối với đền
 Preah Vihear trong một thời gian dài cũng là yếu tố để Tòa quyết định 
rằng chủ quyền của đền thuộc về Campuchia[15].
Việt
 Nam không chối cãi được rằng VNDCCH đã không hề khẳng định chủ quyền 
đối với Hoàng Sa, Trường Sa. CPCMLT CHMNVN thì năm 1969 mới ra đời, và 
cũng không khẳng định chủ quyền một cách cụ thể, trong khi Trung Quốc đã
 liên tục có các động thái để khẳng định yêu sách chủ quyền hai quần 
đảo, ví dụ như chiếm đóng một phần quần đảo Hoàng Sa năm 1956, đưa ra 
tuyên bố lãnh hải 1958. Khi Trung Quốc chiếm hết quần đảo Hoàng Sa năm 
1974 thì CPCMLT CHMNVN cũng chỉ tuyên bố chung chung rằng các nước láng 
giềng thường có tranh chấp lãnh thổ, và các nước liên quan cần giả quyết
 một cách bình đẳng, hữu nghị, v.v., bằng thương lượng.
Khó
 phản biện luận điểm này của Trung Quốc (vận dụng nguyên tắc 
acquiescence) hơn luận điểm 1 (vận dụng nguyên tắc recognition) và 3 
(vận dụng nguyên tắc estoppel).
Việt Nam không 
có cách nào khác ngoài viện dẫn các lời khẳng định chủ quyền và hành 
động chủ quyền của VNCH, và đó là điều mà Việt Nam đã làm.]
6. Việt Nam:
 Việt Nam có đòi chủ quyền. Dẫn chứng là (1) Trước 1956 thì CP Việt Nam 
Quốc Gia đòi chủ quyền, (2) Từ 1956 đến 1975 thì CP VNCH đòi.
[Trung Quốc sẽ phản biện như sau.]
7. Trung Quốc: Trong
 luật quốc tế thì việc khẳng định chủ quyền chỉ có giá trị pháp lý nếu 
việc đó là từ đại diện pháp lý của một quốc gia. Chính quyền Sài Gòn là 
một ngụy quyền, không phải là đại diện pháp lý của 1 quốc gia.
[VN làm gì đây? Bên “A” thì nói "Thấy chưa? CP VNCH là đại diện pháp lý của VN, chính quyền Hà Nội là bất hợp pháp, là hay nhất"? Bên “B” thì nói "Đồ phản động! CP VNDCCH mới là đại diện pháp lý của Việt Nam"?]
9. Trung Quốc: Mỉm cười nụ cười “thiên triều”.
[Đó
 là lý do tại sao cần vận dụng quan điểm của một số nhà luật học nổi 
tiếng nhất thế giới: trước 1976 đất nước Việt Nam là 2 quốc gia[16]. Trong quyển “The creation of States in international law”, luật sư luật quốc tế James Crawford viết như sau.
Trang 474:
“what
 in fact occurred in the period after 1954 is clear - the provisional 
demarcation line between the two zones became a boundary between two 
States, north and south Vietnam.”
Trang 475:
“Each
 entity was a unit for the purposes of the use of force, 
self-determination, foreign and internal affairs; and another name for 
such as unit is a State.”
Trang 476:
“But
 the subsequent establishment of two separate zones in Vietnam must be 
taken to mark the establishment of two separate States, neither of 
which, in law or in fact, ever extended over the whole territories of 
Vietnam.”
Với quan điểm đó, có thể hiểu rằng
 CP VNDCCH là đại diện pháp lý của quốc gia phía bắc, CP VNCH là đại 
diện pháp lý của quốc gia phía nam cho đến 1975, trong thời gian 
1975-1976 thì CPCMLT CHMNVN là đại diện pháp lý của quốc gia phía nam.
Ở
 đây chúng ta cần lưu ý rằng “đại diện pháp lý của quốc gia” là một vấn 
đề luật quốc tế, một vấn đề giữa các quốc gia, nó không nói gì về chính 
nghĩa trong tranh chấp chính trị giữa người Việt với nhau.
Nếu cho rằng trước 1976 và 1975 có 2 quốc gia, Việt Nam có thể nói như sau.]
10. Việt Nam: Theo luật quốc tế thì từ 1956 đến 1975 thì có 2 quốc gia, và CP VNCH là đại diện pháp lý của quốc gia phía nam vĩ tuyến 17.
[Trên
 thực tế, trước 30/4/1975 phần lớn các nước trên thế giới công nhận CP 
VNCH là đại diện pháp lý của quốc gia phía nam. Trong một số bài viết 
khác, chúng tôi đã phân tích về khi VNCH còn tồn tại thì chính thể đó có
 phải là một quốc gia hay không, và quan điểm của chúng tôi là “Có”[17]. Tuy nhiên cần lưu ý rằng thường thì lập luận nào cũng có rủi ro trước Tòa.
Khúc
 mắc hiện nay là khúc mắc có tính lịch sử và chính trị. Hệ quả lô gíc 
của quan điểm "trước 1976 và 1975 có 2 quốc gia" là khi quân đội của 
VNDCCH chiến đấu ở phía nam vĩ tuyến 17 trước khi CP VNCH sụp đổ thì đó 
là can thiệp quân sự vào xung đột nội bộ (tức là xung đột giữa CP VNCH 
và MTGPMN/CPLT CHMNCN trong quốc gia phía nam vĩ tuyến 17) của một quốc 
gia khác (mặc dù cả hai quốc gia đó đều là những phần của tổ quốc Việt 
Nam), tức là đã làm một điều không phù hợp với luật quốc tế. Chắc chắn 
là có người khó có thể chấp nhận rằng sự tham chiến của VNDCCH phía nam 
vĩ tuyến 17 là không phù hợp với luật quốc tế, và do đó họ khó có thể 
chấp nhận quan điểm "trước 1976 và 1975 có 2 quốc gia".
Nhưng
 nếu có ai không chấp nhận (có thể là trên phương diện chính trị hay 
phương diện pháp lý) quan điểm “đã từng hiện hữu 2 quốc gia” thì hãy thử
 đặt vấn đề ngược lại như sau.
Nếu từ 1956 đến 
1975, CP VNCH không phải là đại diện pháp lý của một quốc gia, để cho 
những tuyên bố và hành động của CP đó về Hoàng Sa có giá trị pháp lý, 
thì trong thời gian đó có đại diện pháp lý của quốc gia nào đã khẳng 
định chủ quyền đối với Hoàng Sa? Nếu từ 1956 đến 1975 đại diện pháp lý 
của toàn bộ Việt Nam không khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, còn 
chính thể khẳng định thì lại là ngụy, không phải là đại diện pháp lý cho
 một quốc gia, do đó việc khẳng định không có giá trị pháp lý, thì Tòa 
sẽ kết luận thế nào?
Có vẻ như ở đây có hai điều
 trên bàn cân: một bên là lập luận dựa trên luật quốc tế để bảo vệ chủ 
quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, bên kia là quan điểm về chính trị và 
lịch sử lo ngại rằng nếu công nhận rằng VNDCCH và VNCH đã từng là hai 
quốc gia thì sẽ là một sự công nhận nào đó về “bên kia”, và có thể cả lo
 ngại rằng sự công nhận đó sẽ đặt nghi vấn về sự tham chiến của VNDCCH 
phía nam vĩ tuyến 17.]
11. Trung Quốc: Nếu
 VNDCCH và VNCH là 2 quốc gia thì VNDCCH đã thôn tính lãnh thổ của một 
quốc gia khác (VNCH) bằng bạo lực, do đó không thể thừa kế chủ quyền 
lãnh thổ từ quốc gia đó, bao gồm cả chủ quyền lãnh thổ đối với Hoàng Sa,
 Trường Sa.
[Vấn đề ở đây là nếu cho rằng 
CHXHCNVN là quốc gia phía Bắc vĩ tuyến 17 thụ đắc lãnh thổ của quốc gia 
phía Nam bằng bạo lực thì, với Nghị quyết 2734 (XXV) của LHQ cấm thụ đắc
 lãnh thổ của quốc gia khác bằng bạo lực, CHXHCNVN sẽ không có chủ quyền
 pháp lý với bất cứ vùng lãnh thổ nào phía Nam vĩ tuyến 17, bao gồm cả 
Hoàng Sa, Trường Sa.
Phản biện của Việt Nam sẽ dựa trên sự hiện hữu của CPCMLTCHMNVN. Dựa trên hình thức trên, Việt Nam có thể phản biện như sau.]
12. Việt Nam: CHXHCNVN
 được thành lập từ 2 quốc gia, VNDCCH và CHMNVN, thống nhất lại với nhau
 một cách hợp pháp ngày 2/7/1976. Chính Trung Quốc đã công nhận CPLT 
CHMNCN là đại diện pháp lý của quốc gia phía nam vĩ tuyến 17, và Trung 
Quốc đã công nhận sự thành lập của CHXHCNVN. Vì vậy, Trung Quốc không 
thể cho rằng CHXHCNVN là VNDCCH thôn tính VNCH một cách bất hợp pháp. 
Như vậy, CHXHCNVN đã thừa kế từ VNCH.
[Theo hình thức pháp lý thì:
1. Trước 30/4/1975 có hai quốc gia: VNDCCH và VNCH.
2. Cuộc xung đột trong quốc gia phía nam vĩ tuyến 17 là giữa CP VNCH và CPCMLT CHMNVN.
3. Ngày 30/4 CPCMLT CHMNVN lật đổ CP VNCH, lên cầm quyền, đổi tên quốc gia thành CHMNVN.
4.
 CHMNVN không phải là một quốc gia mới, mà là quốc gia có từ trước 
30/4/1975, nhưng với một tên mới. Vì chỉ là một việc đổi tên và đổi chế 
độ của một quốc gia, không phải là sự thành lập một quốc gia mới, cho 
nên vùng lãnh thổ nào là đã thuộc chủ quyền VNCH mặc nhiên vẫn là của 
CHMNVN[18].
 Tức là nếu trên diện pháp lý trước 30/4/1975 Hoàng Sa, Trường Sa là 
thuộc chủ quyền VNCH, thì sau 30/4/1975 hai quần đảo này sẽ mặc nhiên 
thuộc chủ quyền CHMNVN.
5. Sau 30/4/1975, vẫn có hai quốc gia: VNDCCH và CHMNVN.
6.
 Từ 25/4/1976 đến 2/7/1976, hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN thống nhất lại
 thành một, CHXHCNVN, và sự thống nhất đó không bị nước nào trên thế 
giới, kể cả Trung Quốc, phản đối là xâm lăng bằng bạo lực. Với định 
nghĩa của quốc gia là lãnh thổ, dân cư và nhà nước, định nghĩa của sự 
thống nhất quốc gia tất nhiên là thống nhất lãnh thổ, dân cư và nhà nước
 của một số quốc gia thành một. Khi hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN thống 
nhất thành một, CHXHCNVN, thì dĩ nhiên là chủ quyền lãnh thổ của 
CHXHCNVN bao gồm chủ quyền lãnh thổ của VNDCCH và CHMNVN trước thống 
nhất. Như vậy, nếu trên diện pháp lý trước 2/7/1976 Hoàng Sa, Trường Sa 
là thuộc chủ quyền CHMNVN, thì sau 2/7/1976 hai quần đảo này sẽ mặc 
nhiên thuộc chủ quyền CHXHCNVN. Trừ khi CHXHCNVN tuyên bố rằng mình đã 
không thừa kế Hoàng Sa, Trường Sa, không có lý do hợp lý để cho rằng khi
 CHXHCNVN được thành lập năm 1976 trên diện pháp lý chủ quyền của quốc 
gia đó đã không bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa.
(Có
 thể có quan điểm sai lầm rằng từ 1976 cho đến nay CHXHCNVN vẫn chưa 
thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Tệ hơn nữa, có thể cho 
rằng ngày nay cần làm thủ tục thì mới thừa kế. Quan điểm này là sai lầm 
vì những lý do sau:
1. Như đã trình bày trên, 
ngày 30/4/1975, khi CP VNCH bị sụp đổ và CPCMLT CHMNVN lên thay thế thì 
đó chỉ là một sự thay đổi chế độ và thay đổi tên của một quốc gia. Do 
đó, lãnh thổ của VNCH mặc nhiên là lãnh thổ của CHMNVN. Kế tiếp, như đã 
trình bày trên, năm 1976 hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN đã làm thủ tục để
 thống nhất thành một quốc gia, CHXHCNVN, và thống nhất quốc gia tất 
nhiên bao gồm cả thống nhất lãnh thổ. Do đó, thủ tục để CHXHCNVN thừa kế
 Hoàng Sa, Trường Sa từ CHMNVN (quốc gia trước đó có tên “VNCH”) chính 
là thủ tục thống nhất mà CHMNVN và VNDCCH đã làm từ 25/4/1976 đến 
2/7/1976. 
2. Thứ nhì, trên thực tế, không có 
nước nào trên thế giới cho rằng CHXHCNVN đã không thừa kế chủ quyền lãnh
 thổ của VNCH, cho nên không có lý do hợp lý để người Việt lại cho rằng 
CHXHCNVN đã không thừa kế.
3. Thứ ba, sau khi 
CHXHCNVN ra đời thì hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN/VNCH không còn tồn tại
 nữa. Nếu khi đó CHXHCNVN đã không thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, 
Trường Sa thì chủ quyền đó đã rơi vào tay một trong những nước đã đòi 
chủ quyền từ trước. Nếu từ 1976 cho tới nay CHXHCNVN vẫn chưa thừa kế 
thì dù bây giờ có làm thủ tục gì đi nữa, có tuyên bố gì đi nữa, cũng sẽ 
không còn gì để thừa kế, vì chủ quyền đó đã rơi vào tay nước khác rồi. 
Bất cứ thủ tục, tuyên bố nào ngày nay cũng chỉ có thể xác nhận một sự 
thừa kế đã diễn ra năm 1976, không thể nào thay đổi từ “chưa thừa kế” 
thành “thừa kế”.
4. Nếu ngày nào trong tương lai
 Việt Nam làm gì đó gọi là “làm thủ tục” để thừa kế Hoàng Sa, Trường Sa 
thì Trung Quốc sẽ dùng hành động vớ vẩn đó để nói rằng chính Việt Nam đã
 công nhận rằng từ 1976 cho đến ngày đó đã chưa thừa kế chủ quyền đối 
với Hoàng Sa, Trường Sa, thì Việt Nam sẽ khó có thể cãi rằng trong 
khoảng thời gian đó chủ quyền chưa rơi vào tay nước khác.)
Tuy
 nhiên, luận điểm 12 này cũng không phải không có rủi ro trước Tòa. Trên
 thực tế, những sư đoàn chủ lực của Quân Giải phóng miền Nam (quân đội 
của CPCMLT CHMNVN) là những sư đoàn Quân đội Nhân dân của VNDCH. Chiến 
dịch Hồ Chí Minh được chỉ đạo bởi VNDCCH. Các lữ đoàn xe tăng tiến vào 
dinh Độc lập này 30/4/75 treo cờ CHMNVN, nhưng là các đơn vị của VNDCCH.
 Nếu ra Tòa, vấn đề đó có sẽ có ảnh hưởng gì đến tính pháp lý của việc 
thống nhất và kế thừa không?
Ngoài khía cạnh 
pháp lý trên, có điều trớ trêu là trong khi Điểm 10 có khúc mắc chính 
trị-lịch sử cho những người khó chấp nhận rằng khi VNCH còn tồn tại thì 
nó đã từng là một quốc gia, thì điểm 12 lại có khúc mắc chính trị-lịch 
sử cho một số người có chính kiến khác với nhóm thứ nhất. Nhóm thứ nhì 
này khó chấp nhận quan điểm cho rằng hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN đã 
thống nhất một cách tự nguyện và pháp lý thành CHXHCNVN. Họ cho rằng sự 
thống nhất đó là VNDCCH xâm lược VNCH, và CPCMLTCHMNVN chỉ là bù nhìn 
của VNDCCH.
Nhưng nếu cho rằng VNDCCH đã xâm 
lược VNCH, và cho rằng CPCMLT CHMNVN chỉ là bù nhìn của VNDCCH, thì làm 
sao để lập luận cho rằng CHXHCNVN đã thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa,
 Trường Sa năm 1976? Nếu cho rằng CHXHCNVN chưa thừa kế Hoàng Sa, Trường
 Sa thì như phân tích án lệ ở trên, rất có thể Tòa sẽ cho rằng Việt Nam 
đã mất chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa từ năm 1976 vào tay Trung 
Quốc hoặc Philippines, là những quốc gia đã liên tục có yêu sách chủ 
quyền từ trước 1975.
Dường như Hoàng Sa, Trường 
Sa lại bị đặt lên bàn cân: một một bên là lập luận pháp lý để bảo vệ chủ
 quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, bên kia là quan điểm chính trị và 
lịch sử của những người cho rằng sự thống nhất của Việt Nam lại thành 
một quốc gia, CHXHCNVN, là không hợp pháp.]
Trong trường hợp không chứng minh được là đã từng có hai quốc gia, có lẽ Việt Nam có hai lập luận khác.
Thứ
 nhất, nếu kể ra cho đầy đủ thì Việt Nam có thể tìm cách biện luận rằng 
trong giai đoạn 1956-1975 CP VNCH là chính phủ pháp lý của quốc gia Việt
 duy nhất. Trên thực tế, Việt Nam ngày nay sẽ khó chấp nhận quan điểm 
đó, chưa nói tới Tòa có sẽ chấp nhận hay không. Vì thế, quan điểm này có
 vẻ có ít tính thực tế.
Thứ nhì, Việt Nam có thể
 tìm cách biện luận rằng trong giai đoạn 1954-1975 chủ quyền Việt Nam 
đối với Hoàng Sa, Trường Sa nằm trong tình trạng đóng băng, và không thể
 thay đổi. Thí dụ, Việt Nam có thể cố gắng dùng một số trong những lập 
luận sau.
1. Cả chính quyền Hà Nội và chính 
quyền Sài Gòn đều không có đủ thẩm quyền để thay đổi gì về chủ quyền 
lãnh thổ. Nhưng có vẻ như có ít cơ sở pháp lý cho lập luận này.
2.
 Mỗi bên không có thẩm quyền để thay đổi gì về chủ quyền của những vùng 
lãnh thổ bên kia quản lý. Nhưng không biết trong luật quốc tế có nguyên 
tắc nào có nghĩa “mỗi bên không có thẩm quyền để thay đổi gì về chủ 
quyền của những vùng lãnh thổ bên kia quản lý” nếu hai bên đó không phải
 là hai quốc gia?
3. Cuộc chiến khốc liệt đã tạo
 ra một hoàn cảnh đặc biệt đòi hỏi chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa, 
Trường Sa, phải được đóng băng để bảo đảm sự công bằng. Trên thực tế, 
nguyên tắc utis possidetis có được áp dụng trong chiến tranh, khi nước 
này chiếm đóng lãnh thổ của nước kia trong cuộc chiến, và cũng được áp 
dụng cho quá trình giành độc lập của các nước thuộc địa. Nhưng không rõ 
có thể áp dụng nguyên tắc đó cuộc chiến 1954-1975 không?
Tuy nhiên, chúng tôi chưa nghiên cứu đủ để tìm thấy cơ sở pháp lý của những lập luận trên và thật sự đánh giá chúng.
Trên
 đây chúng tôi đưa ra một kịch bản giả tưởng có thể xảy ra tại Tòa. 
Nhưng cho dù Tòa chưa thể phân xử tranh chấp, những nguyên tắc trong 
kịch bản này vẫn áp dụng cho hiện tại. Lý do là trong hiện tại, trong 
cuộc tranh biện về Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông trên trường quốc tế,
 Trung Quốc đã luôn viện dẫn CH PVĐ để chứng minh Việt Nam đã thừa nhận 
chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa[19]. Một số học giả quốc tế cũng coi đây là điểm yếu trong yêu sách chủ quyền của Việt Nam[20].
 Bởi vậy, tuy là một kịch bản tại Tòa, và vẫn còn chưa biết tới ngày nào
 Trung Quốc sẽ đồng ý ra Tòa, nhưng ngay từ lúc này Việt Nam cần phải 
nghiên cứu, mổ xẻ vấn đề này để có thể chuẩn bị lý lẽ cho cuộc tranh 
biện trên truyền thông và trong giới học giả. Việt Nam coi trận hải 
chiến Hoàng Sa là hành động dùng vũ lực của Trung Quốc để cưỡng chiếm 
Hoàng Sa, nhưng Trung Quốc có thể nói rằng đây là cuộc chiến chính đáng 
để thu hồi đất bị chiếm. Cũng có hai quan điểm đối kháng tương tự cho 
Trường Sa. Dư luận thế giới sẽ tin bên nào, có ủng hộ Việt Nam hay ngó 
lơ cho Trung Quốc, có lẽ phụ thuộc rất nhiều vào lập luận pháp lý của 
mỗi bên và phụ thuộc vào sự tích cực của Việt Nam trong việc tranh thủ 
dư luận quốc tế.
Thế nhưng, vẫn còn những khúc 
mắc trong các quan điểm khác nhau về chính trị và lịch sử, vẫn còn những
 vết thương chưa lành từ cuộc chiến, thậm chí có thể có cả những sự chụp
 mũ, và những điều này vẫn còn gây ra những hạn chế cho môi trường phân 
tích pháp lý. Hai bàn cân được đề cập đến trong Điểm 10 và 12 trong kịch
 bản có, hay có sẽ, nghiêng về ưu tiên cho Hoàng Sa và Trường Sa hay 
không?
D.D.H. & P.T.V.
.....................................
[1]
 Sovereignty over Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks and South 
Ledge (Malaysia/Singapore), Judgment, I.C.J. Reports 2008: http://www.icj-cij.org/docket/files/130/14492.pdf
[2] Xem tr. 73, đ. 227:
[2]Regarding the first submission,
 the Court does not consider the Johor reply as having a constitutive 
character in the sense that it had a conclusive legal effect on Johor.
 Rather it is a response to an enquiry seeking information. It will be 
seen that, in the circumstances, this submission is closely related to 
the third.
[3] Xem tr. 73, đ. 228:
[3]Regarding
 the second submission, the Court points out that a party relying on an 
estoppel must show, among other things, that it has taken distinct acts 
in reliance on the other party’s statement (North Sea Continental Shelf,
 Judgment, I.C.J. Reports 1969, p. 26, para. 30). The Court observes 
that Singapore did not point to any such acts. To the contrary, it 
acknowledges in its Reply that, after receiving the letter, it had no 
reason to change its behaviour; the actions after 1953 to which it 
refers were a continuation and development of the actions it had taken 
over the previous century. While some of the conduct in the 1970s, which
 the Court next reviews, has a different character, Singapore does not 
contend that those actions were taken in reliance on the Johor response 
given in its letter of 1953. The Court accordingly need not consider whether other requirements of estoppel are met.
[3]Xem tr. 82, đ. 229:
[3]Finally,
 on the third submission about the Johor reply amounting to a binding 
unilateral undertaking, the Court recalls that when it is claimed that 
“States make statements by which their freedom of action is to be 
limited, a restrictive interpretation is called for” (Nuclear Tests 
(Australia v. France), Judgment, I.C.J. Reports 1974, p. 267, para. 44; 
Nuclear Tests (New Zealand v. France), Judgment, I.C.J. Reports 1974, p.
 473, para. 47). The Court also observes that the statement was not made
 in response to a claim made by Singapore or in the context of a dispute
 between them, as was the case in the authorities on which Singapore 
relies. To return to the discussion of the first submission, Johor 
was simply asked for information. Its denial of ownership was made in 
that context. That denial cannot be interpreted as a binding undertaking.
[4] Xem tr. 96, đ. 275:
[4]Further,
 the Johor authorities and their successors took no action at all on 
Pedra Branca/Pulau Batu Puteh from June 1850 for the whole of the 
following century or more. And, when official visits (in the 1970s for instance) đwere made, they were subject to express Singapore permission. Malaysia’s
 official maps of the 1960s and 1970s also indicate an appreciation by 
it that Singapore had sovereignty. Those maps, like the conduct of both 
Parties which the Court has briefly recalled, are fully consistent with 
the final matter the Court recalls. It is the clearly stated position of
 the Acting Secretary of the State of Johor in 1953 that Johor did not 
claim ownership of Pedra Branca/Pulau Batu Puteh. That statement has 
major significance.
[4]Xem tr. 96, đ. 276:
[4]The
 Court is of the opinion that the relevant facts, including the conduct 
of the Parties, previously reviewed and summarized in the two preceding 
paragraphs, reflect a convergent evolution of the positions of the 
Parties regarding title to Pedra Branca/Pulau Batu Puteh. The Court 
concludes, especially by reference to the conduct of Singapore and its 
predecessors à titre de souverain, taken together with the conduct of 
Malaysia and its predecessors including their failure to respond to the 
conduct of Singapore and its predecessors, that by 1980 sovereignty over
 Pedra Branca/Pulau Batu Puteh had passed to Singapore. 
[5] Công ước Montevideo 1933 về quyền và nghĩa vụ của các quốc gia: http://www.cfr.org/sovereignty/montevideo-convention-rights-duties-states/p15897
[5]ARTICLE 1
[5]The
 state as a person of international law should possess the following 
qualifications: a ) a permanent population; b ) a defined territory; c )
 government; and d) capacity to enter into relations with the other 
states.
[5]
[6]
 Có “State” và “État” được thành “Nhà nước”, nhưng dịch như thế là không
 chính xác. Thí dụ như UNCLOS đề cập đến “coastal State” và “user 
State”, nếu dịch thành “quốc gia ven biển” và “quốc gia sử dụng biển” 
thì sẽ chính xác hơn dịch thành “Nhà nước ven biển” và “Nhà nước sử dụng
 biển”.
[7] Công ước Montevideo, Điều 3:
[7]The
 political existence of the state is independent of recognition by the 
other states. Even before recognition the state has the right to defend 
its integrity and independence, to provide for its conservation and 
prosperity, and consequently to organize itself as it sees fit, to 
legislate upon its interests, administer its services, and to define the
 jurisdiction and competence of its courts.
[7]The
 exercise of these rights has no other limitation than the exercise of 
the rights of other states according to international law.
[7]
[8]
 Thí dụ như “Báo cáo của ông Trường Chinh, Trưởng Đoàn đại biểu miền Bắc
 tại Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc, ngày 
15-11-1975”, http://www.na.gov.vn/Sach_QH/VKQHtoantapIV/Vankienkhac/vkk_4.htm, ghi
[8]Về
 mặt Nhà nước, Việt Nam là một nước, nhưng về danh nghĩa vẫn chia làm 
hai Nhà nước: miền Bắc có Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, miền Nam 
có Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Miền Bắc có Chính phủ Việt Nam 
Dân chủ Cộng hoà; miền Nam có Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
 Nam Việt Nam.
[8]Quan
 điểm của CHMNVN cũng là VNDCCH và CHMNVN vẫn còn là hai Nhà nước khác 
biệt. Thí dụ như “DIỄN VĂN CỦA ÔNG PHẠM HÙNG, TRƯỞNG ĐOÀN ĐẠI BIỂU MIỀN 
NAM TẠI HỘI NGHỊ HIỆP THƯƠNG CHÍNH TRỊ THỐNG NHẤT TỔ QUỐC, NGÀY 
15-11-1975”, http://www.na.gov.vn/Sach_QH/VKQHtoantapIV/Vankienkhac/vkk_5.htm, ghi
[8]Vừa
 qua, ở miền Nam đã họp Hội nghị liên tịch mở rộng giữa Uỷ ban Trung 
ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng, Trung ương Liên minh Các lực lượng Dân
 tộc dân chủ và hòa bình, Chính phủ Cách mạng lâm thời, Hội đồng Cố vấn 
Chính phủ, nhiều đại biểu trí thức, nhân sĩ yêu nước và dân chủ, để thảo
 luận việc sớm thực hiện thống nhất Tổ quốc về mặt Nhà nước. Hội nghị đã
 hoàn toàn nhất trí về sự cần thiết phải sớm thống nhất Nhà nước và 
thống nhất trên cơ sở chủ nghĩa xã hội.
[9] Hà Nội Mới, Số 2246, 2/5/1975
[10]
 "Estoppel, Acquiescence and Recognition in Territorial and Boundary 
Dispute Settlement", Nuno Sergio Marques Antunes, 2000, International 
Boundaries Research Unit, Durham University.
[11] Monique Chemillier-Gendreau, “Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands”: p. 129
[12] Xem “Legal effects of unilateral declarations”, http://www.iilj.org/courses/documents/AILUnit4oldLegalEffectsUnilateralDeclarations.pdf
[12]và
[12]"Guiding
 Principles applicable to unilateral declarations of States capable of 
creating legal obligations", The International Law Commission, http://legal.un.org/ilc/texts/instruments/english/draft%20articles/9_9_2006.pdf
[12]
[13]
 “A legal analysis in support of Viet Nam’s position regarding the 
Paracel & Spratly Islands”, Nguyen Thai Linh and Duong Danh Huy, 
2012, South China Seas Studies, Học viện Ngoại giao, http://southchinaseastudies.org/en/publications/vietnamese-publications/698-a-legal-analysis-in-support-of-viet-nams-position-regarding-the-paracel-a-spratly-islands
[14]
 “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa”, Từ Đặng Minh Thu, 
2007, Thời Đại Mới, 
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai11/200711_TuDangMinhThu.htm
[15] Case concerning the temple of Preah Vihear (Cambodia v. Thailand). I.C.J. summary 1962: 
[15]http://www.icj-cij.org/docket/files/45/4873.pdf
[16] “The creation of States in international law”, Crawford, 2006, Oxford University Press.
[17] “Tính pháp lý của việc thừa kế hai quần đảo”, Phạm Thanh Vân và Dương Danh Huy, 2012, BBC, http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2012/07/120707_legal_scs_comment.shtml
[17]và
[17]“Công nhận VNCH vì biển đảo ngày nay?”, Dương Danh Huy, Phạm Thanh Vân và Nguyễn Thái Linh, 2013, BBC, http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2013/04/130411_hoangsa_truongsa_vn_vnch.shtml
[17]
[18]
 Thí dụ như khi phe nổi loạn ở Zaire lật đổ chế độ Mobutu và đổi tên 
nước thành Democratic Republic of the Congo thì đó chỉ là sự thay đổi 
chế độ và thay tên của một quốc gia, không phải là sự thành lập một quốc
 gia mới, cho nên những vùng lãnh thổ nào là của Zaire mặc nhiên vẫn là 
của Democratic Republic of the Congo. Cũng như khi Lol Nol lật đổ 
Sihanouk và đổi tên nước thành Cộng Hòa Khmer, Khmer Đỏ lật Lol Nol và 
đổi tên nước thành Campuchia Dân Chủ, thì những vùng lãnh thổ nào là của
 Campuchia vẫn là của Campuchia.
[19] Tại Hội thảo quốc tế về tranh chấp Biển Đông
 do Trung tâm châu Á và toàn cầu hóa phối hợp tổ chức với trường ĐH Lý 
Quang Diệu tháng 3 năm 2013, với sự tham gia của nhiều học giả và quan 
chức từ Mỹ, Việt Nam, Trung Quốc và Singapore, khi được chất vấn về hành
 động "thay đổi hiện trạng" của Trung Quốc vào các năm 1974 và 1988, học
 giả Trung Quốc đã viện dẫn CH PVĐ để chứng minh rằng Việt Nam đã công 
nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường 
Sa: http://asiasociety.org//video/policy/us-and-china-south-china-sea-complete?utm_source=asiasociety.org&utm_medium=jwplayer&utm_campaign=video (xem từ phút thứ 59)
[19]
[19]Hay: Trong cuốn sách mới xuất bản năm 2013 với tựa đề "Solving Disputes for Regional Cooperation and Development in the South China Sea: A Chinese Perspective",
 Wu Shicun, chủ tịch Viện nghiên cứu quốc gia TQ về Biển Đông do chính 
phủ TQ tài trợ, viết “VNDCCH công khai ủng hộ chủ quyền của Trung Quốc 
đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” (Nguyên văn tiếng Anh: “DRV 
openly supported China's sovereignty over the Xisha and Nansha Islands")
[19]
[20] Stein Tonnesson, "The History of the Dispute," in Timo Kivimaki (ed.): p. 16
[20]Clarence
 J. Bouchat, “Dangerous Ground: The Spratly islands and U.S. interests 
and approaches”, United States Army War College Press (2013): p. 25
[20]Trefor
 Moss, “History Wars: A Long View of Asia's Territorial Disputes”, The 
Diplomat (2013): 
http://thediplomat.com/2013/09/history-wars-a-long-view-of-asias-territorial-disputes/
Source :  http://bolapquechoa.blogspot.fr/2014/02/vi-sao-can-ban-ve-tinh-quoc-gia-cua.html

Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire