Cái thằng khốn nạn ấy nó không xứng đáng là vua của Việt Nam đâu, và tôi cầu Trời khấn Phật cho nó đời đời ở dưới địa ngục ! Và cả dòng họ nhà nó không bao giờ ngóc đầu lên được !
Các bác đọc đoạn ông linh mục người Pháp kể lại chuyện hắn cho voi giày con gái nhỏ của bà Bùi Thị Xuân chưa? Một kẻ dã man sẵn sàng dày xéo tất cả những gì là đẹp đẽ, yếu ớt, trong trắng nhất của nhân loại, thì hắn không phải là một con người, hắn là hiện thân của quỷ dữ ! Hắn không phải là vua của Việt Nam !!! Các bác mà có nhân phẩm thì các bác không bao giờ cần công trạng gì của một kẻ như thế cả ! Đấy là chưa kể chính sách bế quan tỏa cảng của hắn đã làm cho Việt Nam khốn đốn lạc hậu cả hơn một thế kỷ ! Cứ so với Nhật Bản mà xem ! Miền Nam hồi xưa hình như còn có trường cho nữ sinh mang tên Gia Long ! Thật rõ khéo đặt tên, thật vinh dự cho trí thức miền Nam !!! Cái điều đó nó nói lên rất nhiều về cái nền giáo dục của các bác đấy !
Những thay đổi mới về cách nhìn nhận lịch sử VN!
| 
 
Bài
 viết này giới thiệu một số thay đổi đáng ghi nhận của giới sử học Việt 
Nam (quốc nội) sẽ được thấy trong bộ Sử Việt Nam mới, như: Ghi nhận công
 lao nhà Nguyễn, lấp những khoảng trống lịch sử như lịch sử miền Trung 
và Nam Bộ trước khi thuộc về người Việt, lịch sử Việt Nam Cộng hoà… 
 
Bước chuyển khiêm tốn và
 quá muộn màng sau 42 năm “bên thắng cuộc” giành được chính quyền trên 
toàn quốc, chỉ vì não trạng cố thủ của đảng CS toàn trị quyết “chính trị
 hoá” sử học cũng như toàn bộ các ngành khoa học xã hội, mà hậu quả khôn
 lường là tâm lý nghi ngờ dẫn đến chán ghét sử nước nhà của bao thế hệ 
học sinh, cũng như những lúng túng ngay trong chính trị hiện thời như 
việc xác lập chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa. 
 
Dứt khoát, triệt để trả 
khoa học về cho khoa học, cũng như trả văn nghệ về cho văn nghệ, yêu cầu
 chính đáng cất lên từ thời “Nhân Văn-Giai Phẩm” hơn 60 năm trước vẫn 
còn nguyên tính thời sự. Không thể chậm trễ hơn, trước khi những hệ lụy 
của tư duy toàn trị triệt bỏ chức năng truy tìm chân lý của giới trí 
thức và triệt phá hết sự lương thiện trong từng con người trí thức, văn 
nghệ sĩ. 
 
Văn Việt  
 | 
GS.NGND. Phan Huy Lê trình bày tham luận tại buổi 
công bố. GS cho biết một bộ sử Việt mới gồm 25 tập sẽ được công bố nay 
mai !(Ảnh của báo Tiền Phong)
Ngày 22/2/2017 tại Hà Nội, Ban Tuyên giáo trung 
ương tổ chức buổi thông tin khoa học “Một số thành tựu mới trong nghiên 
cứu lịch sử Việt Nam” do GS.NGND Phan Huy Lê – chủ tịch danh dự Hội Khoa
 học lịch sử Việt Nam, trình bày.
GS Phan Huy Lê đã công bố những thành tựu mới 
trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam. Nhưng có lẽ đặc biệt nhất trong buổi 
lễ này là lần đầu tiên trong nhiều thập kỷ Hội khoa học lịch sử và Ban 
tuyên giáo trung ương – là hai cơ quan cao nhất của nhà nước về Khoa học
 Lịch sử và Tuyên giáo đã chính thức công bố “Ghi nhận công lao nhà 
Nguyễn”, xác nhận đã có “ Những khoảng trống lịch sử” trong việc dạy và 
học môn lịch sử bấy lâu nay tại nước ta.
Đồng thời tại buổi lễ này Hội Khoa học Lịch sử và cơ quan Tuyên giáo của Đảng cũng đã “Xác lập một quan điểm lịch sử mới”.
Với tư cách là người chịu trách nhiệm cao nhất về
 chuyên môn, GS.NGND Phan Huy Lê – chủ tịch danh dự Hội Khoa học lịch sử
 Việt Nam – ông đồng thời là diễn giả chính, công bố những thông tin mới
 về khoa học lịch sử – “Một số thành tựu mới trong nghiên cứu lịch sử 
Việt Nam”. Đã có nhiều thành tựu mới được công bố, nhiều quan điểm và 
chủ đề khác nhau được giới thiệu trong dịp này, nhưng trong giới hạn của
 bài viết tôi chỉ xin giới thiệu 03 chủ đề chính được nêu ra trong lần 
công bố này, đây cũng là 03 chủ đề được công luận và giới nghiên cứu đặc
 biệt quan tâm nhất :
Di tích Ngọ môn tại Hoàng thành huế
1. Chính thức ghi nhận công trạng của nhà Nguyễn
Theo đó, GS Phan Huy Lê đã tuyên bố: “Một trong 
những công lao rất lớn của chúa Nguyễn và nhà Nguyễn là mở mang bờ cõi, 
thống nhất đất nước, khai phá đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1757 chúa 
Nguyễn đã định hình được lãnh thổ Việt Nam mà về cơ bản gần giống như 
lãnh thổ Việt Nam hiện nay từ phía Bắc vào Cà Mau, từ Tây nguyên ra 
biển, bao gồm cả vùng biển, các đảo ven bờ và hai quần đảo Hoàng Sa – 
Trường Sa. Nhà Nguyễn có công rất lớn trong việc hình thành và định hình
 một nhà nước thống nhất và xác lập lãnh thổ – không gian sinh tồn của 
nước Việt Nam. Công lao nhà Nguyễn về phương diện này không thể chối 
cãi. Đã đến lúc cần nhìn rõ công, tội của nhà Nguyễn”.
“Nhìn nhận về lịch sử phải hết sức khách quan và 
cái gì khách quan của lịch sử mới tồn tại lâu dài được. Còn cái gì mà 
trong một tình thế thời sự nào đó ta phải tôn vinh hoặc hạ thấp thì nó 
chỉ tồn tại trong một điều kiện nhất định nào đó. Sử học đành rằng phải 
làm tròn trách nhiệm công dân nhưng sứ mạng cao cả nhất của sử học là 
làm thế nào để tạo nên được những trang sử bằng cứ liệu lịch sử khách 
quan, trung thực”.
Tuy nhiên, GS Lê cũng nhắc lại hai tội lớn của 
nhà Nguyễn là để mất nước vào tay quân Pháp và quá bảo thủ, từ chối tất 
cả các đề nghị canh tân đất nước của nhiều nhà trí thức tiến bộ.
Về cái gọi là “tội” của Nhà Nguyễn như vị giáo sư
 này kết luận, cá nhân tôi cảm thấy khá băn khoăn ; vì điều này là quá 
cũ và mỗi người dân Việt hầu như ai cũng biết. Nếu tôi nhớ không sai thì
 ngay từ thuở cắp sách đến trường, tuy nhận thức chưa đầy đủ nhưng trong
 mỗi chúng ta mấy ai không quặn lòng khi đọc đến những trang đen tối 
trong sử Việt cuối thế kỷ XIX : “chế độ phong kiến lỗi thời với những 
ông vua bảo thủ và quần thần mê muội khiến đất nước suy yếu, dễ dàng rơi
 vào tay thực dân Pháp” !
Nhưng cũng không mấy ai biết được rằng cái thua 
của nhà Nguyễn là tất yếu. Vì đó là sự chiến thắng của khoa học kỹ thuật
 phương Tây trước nền văn minh phương Đông đã bước vào giai đoạn suy 
tàn. Trước làn sóng chiếm đất làm thuộc địa của các nước tư bản phương 
Tây tràn vào châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng, đã khiến hầu hết 
các nước đều chịu chung số phận : Indonesia ( thuộc địa của Bỉ và Hòa 
Lan), Ấn Độ, Mã Lai, Miến Điện (Anh), Philippine (Tây Ban Nha), Macao 
(Bổ Đào Nha), Việt Nam, Lào, Cambodia (Pháp)…Chỉ duy nhất trong khu vực 
là nước Xiêm La (Thái Lan) may mắn thoát khỏi sự chiếm đóng và giữ được 
độc lập tương đối nhờ vị trí địa lý, làm trái độn giữa hai đế quốc thực 
dân (Anh – Pháp). Nhưng cũng phải trả giá bằng hơn một nữa lãnh thổ rộng
 lớn của người Xiêm La trước đó đã bị hai tên thực dân này cắt mất và 
nhập vào nước khác mà cho đến nay đã không thể đòi lại được .
Hầu như không một nước nào tại châu Á lúc ấy có 
thể chống lại được sức mạnh quân sự của phương Tây, do sự chênh lệch về 
hiệu năng vũ khí quá lớn. Điển hình là Trung Hoa, một nước lớn từng làm 
“mẫu mực” hàng ngàn năm cho các tiểu quốc trong vùng, đã bị liên minh 8 
nước đế quốc đánh cho tơi tả. Cái gọi là nền độc lập của Nhà Thanh suốt 
thế kỷ 19 và những thập kỷ đầu thế kỷ 20 chỉ là độc lập giả hiệu, hữu 
danh vô thực – hay nói đúng hơn là chỉ còn cái vương quyền; còn đất nước
 thì bị các nước phương Tây xâu xé và chiếm đóng. Đất nước Trung Hoa 
rộng lớn vào những năm cuối thế kỷ 19 đã bị chia thành những khu nhượng 
địa do người phương Tây cai quản !
Dĩ nhiên không thể lấy đó để biện minh cho trách 
nhiệm của nhà Nguyễn trước lịch sử. Nhưng cũng không thể vì thành kiến 
mà đổ vấy hết tội cho triều Nguyễn, mà phải xét thấu đáo đến những yếu 
tố khách quan, chủ quan lúc đó ?
Trước khi phê phán trách nhiệm để mất nước vào 
tay thực dân Pháp, chúng ta hãy thử đặt mình vào vị thế của nhà Nguyễn 
lúc đó, với những hạn chế khách quan về tương quan quân sự Đông –Tây lúc
 đó. Vì chính những hạn chế đó đã tác động đến đại cục.
Có nên không khi đứng ở thế kỷ 21 nhìn về hơn 
trăm năm trước, dùng thế giới quan hiện đại mà phê phán nặng lời tiền 
nhân thì dễ, nhưng nếu tự đặt mình vào hoàn cảnh đó, hoặc nhìn lại mình 
hôm nay, có thấy khá hơn chăng ?
Rất may là cuối cùng cũng có người nhìn nhận ra được vấn đề !
Rất may là cuối cùng cũng có người nhìn nhận ra được vấn đề !
 2. Những khoảng trống lịch sử
Chủ đề thứ hai được dư luận đặc biệt qua tâm là 
“đã có những khoảng trống trong sự hiều biết của người dân, học giả và 
giới nghiên cứu về lịch sử dân tộc”. Trong bài thuyết trình của mình, GS
 Phan Huy Lê thẳng thắn chỉ ra nhiều khoảng trống lịch sử nguy hiểm 
trong tư duy, nhận thức về lịch sử Việt Nam hiện nay.
Ba dân tộc Khmer – Chăm – Mường có nền văn hóa rất rực rỡ
Theo GS Lê đã có những câu hỏi cho tới nay chưa được trả lời, ví dụ:
“Vì sao nước ta có 54 dân tộc mà chỉ có tôn vinh lịch sử của người Việt, gạt bỏ các dân tộc khác ra ngoài ?”.
Vì sao lịch sử Trung bộ trước năm 1471 không có ?
 Vì sao lịch sử Nam bộ trước thế kỷ 17 không thấy đề cập trong các bộ 
chính sử VN. Vì sao lịch sử miền Nam dưới thời Việt Nam Cộng Hoà không 
có đề cập trong sử sách . v.v…?
Với rất nhiều các câu hỏi này cho tới nay “ Thì 
câu hỏi vẫn chỉ là câu hỏi ?”. Vì chỉ một việc nhìn nhận ra được vấn đề 
đã là quá khó . Và sau hơn 40 năm thống nhất đất nước, nhưng cho tới nay
 chúng ta mới nhìn nhận ra được vấn đề, mới xác lập được những quan điểm
 lịch sử cốt yếu cho lịch sử dân tộc thì có quá trễ không ?
Một ngôi chùa của người Khmer
GS Phan Huy Lê cho rằng : “nhận thức về lịch sử 
Việt Nam hiện nay vẫn xuất phát từ truyền thống thời quân chủ, đó chủ 
yếu là lịch sử của các vương triều, của nhà vua, các triều thần, còn 
lịch sử nhân dân rất mờ nhạt. Lịch sử của các dân tộc thiểu số không 
được nhắc đến. Sử học hiện đại Việt Nam trong một thời gian dài cũng chỉ
 trình bày nặng về lịch sử người Việt.”
“Vì vậy, trên cả nước thì chỉ có lịch sử miền Bắc
 là được trình bày có ngọn nguồn từ thời nguyên thủy đến thời Hùng 
Vương, An Dương Vương, thời Bắc thuộc đến thời phong kiến, cận đại, hiện
 đại. Còn lịch sử của Nam Trung bộ chỉ mới bắt đầu từ thế kỷ 16, lịch sử
 Nam bộ chỉ bắt đầu từ thế kỷ 17.
Trước đó lịch sử ở hai vùng đất này ra sao thì 
chúng ta bỏ trống. Đó là một khoảng trống lịch sử cực kỳ nguy hiểm. Vì 
từ khoảng trống này đã làm nảy sinh nhiều nhận thức tùy tiện, bất lợi 
cho chủ quyền lãnh thổ Việt Nam hiện nay.”
Đây cũng có thể hiểu như là một hành vi thiếu 
trách nhiệm của chính những người có trách nhiệm về lĩnh vực văn hoá, 
tuyên giáo. Đúng ra là ngay từ khi ta nắm chính quyền các cơ quan phụ 
trách về lĩnh vực văn hoá, tuyên giáo phải có những nhìn nhận thật đầy 
đủ và chính xác về thực tế lịch sử; cũng như phải xác lập những quan 
điểm lịch sử chính thức công bố cho toàn dân biết . Vì nếu có những nhìn
 nhận đúng thật tế lịch sử mới đề ra được những đối sách thích hợp trong
 việc xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm an ninh quốc 
phòng cho đất nước. Với việc làm chậm trễ này đã khiến cho những nhà 
nghiên cứu sử, những người dạy sử và học sử phải mày mò tìm kiếm quan 
điểm, nhận thức trong một thời gian dài. Ngoài ra nó cũng đã khiến cho 
không ít những người làm công tác chính trị, ngoại giao khá lúng túng 
trong từng đối sách của mình. Và thật tế này cũng đã gây ra không ít hậu
 quả và những câu chuyện cười ra nước mắt cho những nhà nghiên cứu sử, 
những người dạy sử .
Cho tới nay đa số người dân khu vực Trung Trung 
bộ và Nam Trung bộ hoàn toàn không biết được lịch sử vùng đất mình đang 
sống trước năm 1302 (Trung Trung bộ) và năm 1471 (Nam Trung bộ), vì họ 
không được học và không có bộ sách sử phổ thông nào đề cập. Thậm chí 
những người làm công tác văn hoá, bảo tồn bảo tàng cũng chỉ được trang 
bị những kiến thức rất giới hạn, nên họ hiểu khá mập mờ công việc mình 
đang làm. Chỉ những nhà nghiên cứu chuyên sâu mới có thể biết được cụ 
thể lịch sử vùng đất này với những mốc lịch sử như trên – nhưng những 
nhà nghiên cứu này không nhiều !
Một khu di tích Chăm tại Ninh Thuận
Người dân Nam Bộ cho tới nay cũng chỉ biết lịch 
sử vùng đất mình đang sống từ thế kỷ 17 khi người Việt bắt đầu vào khai 
phá. Nếu đặt một câu hỏi về lịch sử Nam bộ, hay của Sài Gòn trước thế kỷ
 17 với họ, thì hầu như không ai trả lời được. Nhiều trí thức Nam Bộ đã 
rất băn khoăn khi nhân dân hỏi thì không biết trả lời thế nào cho đúng 
về lịch sử Nam bộ trước khi người Việt vào khai phá. Không lẽ bảo rằng 
vùng đất này tới thế kỷ 17 là từ trên trời rơi xuống ?
Một chủ đề khác đã được một số học giả tham gia 
buổi lễ nêu ra nhưng không có được câu trả lời. Đó là lịch sử miền Nam 
dưới thời Việt Nam Cộng Hoà đã hoàn toàn không được đề cập đến trong mọi
 sử sách từ năm 1975 cho tới nay.
Một chính thể đã từng tồn tại nhiều thập kỷ, có 
những tác động lớn đến chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội VN trong một 
thời gian dài. Chính thể này đã được đa số quốc tế thừa nhận, đã từng 
tham gia nhiều tổ chức khu vực và quốc tế lớn. Đã từng đại diện cho Việt
 Nam tham gia nhiều hội nghị quốc tế lớn như hội nghị San Francisco, 
California (Mỹ) năm 1951 giữa lực lượng Đồng minh và Nhật Bản, có phái 
đoàn của 51 quốc gia tham dự; nhằm phân chia lại những vùng đất bị Nhật 
chiếm đóng (Hội nghị này có liên quan đến chủ quyền lãnh thổ VN nhất là 
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa), đã là một bên tham gia hội nghị
 Giơnever, hội nghị Paris…. Cũng như đã từng đại diện VN tham gia nhiều 
tổ chức văn hoá, giáo dục, thể thao khác của khu vực và của thế giới !
Rõ ràng với những nhận thức phiến diện của những 
người có trách nhiệm trong một thời gia dài đã vô tình tạo thành một 
khoảng trống trong lịch sử đất nước. Đã khiến cho những người học sử, 
yêu sử Việt cảm thấy khá hụt hẩng nếu không có kiến thức chuyên môn sâu.
3. Xác lập quan điểm lịch sử mới
Lời giải mà GS Phan Huy Lê đưa ra để san lấp các 
khoảng trống lịch sử đó là cần phải xác lập một quan điểm, nhận thức mới
 về lịch sử Việt Nam. “Một quan điểm tuy không được đưa vào các văn kiện
 của Liên Hiệp Quốc nhưng gần như tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế 
giới đều thừa nhận, đó là lịch sử của bất cứ một quốc gia dân tộc nào 
cũng đều xuất phát từ lãnh thổ hiện nay để viết sử.
Tất cả những gì diễn ra trên không gian địa lý, 
lãnh thổ đó đều thuộc về chủ quyền khai thác, bảo quản và nghiên cứu của
 chính quốc gia đang làm chủ đó, dù trước đó có những dân tộc đã từng có
 nhà nước riêng.
Tất cả các tầng lớp cư dân, cộng đồng, tộc người 
hay các vương quốc từng tồn tại trên các không gian lãnh thổ đó đều 
thuộc về lịch sử và văn hóa của nhà nước hiện nay đang quản lý lãnh thổ 
đó”.
GS Lê lấy ví dụ Trung Quốc trước đây cũng viết 
lịch sử đất nước chủ yếu là của người Hán, nhưng bước sang đầu thế kỷ 21
 thì quan điểm đó đã thay đổi, bây giờ họ trình bày lịch sử của Trung 
Hoa bao gồm nhiều tộc người như người Hán, người Mãn Thanh, người Mông 
và cả các vương triều phi Hán như nhà Nguyên, nhà Thanh…
Nếu xác lập quan điểm lịch sử mới này, chúng ta 
sẽ tìm được giải pháp xuyên suốt cho vấn đề chủ quyền hai quần đảo Hoàng
 Sa, Trường Sa và vấn đề Nam bộ.
“Lãnh thổ Việt Nam hiện nay đã được nhiều tổ chức
 quốc tế công nhận – tức là một lãnh thổ hợp pháp, nên tất cả những gì 
diễn ra trên lãnh thổ này, kể cả đất liền, hải đảo và hải phận đều là 
một bộ phận của lịch sử và văn hóa Việt Nam.
Như vậy, lịch sử Việt Nam không chỉ là lịch sử 
của một bộ phận người Việt mà là lịch sử của tất cả các dân tộc nằm 
trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, trong đó bao gồm cả các dân tộc
 trước đây đã từng có nhà nước riêng như người Chăm, người Khmer… Tất cả
 các nền văn hóa từng tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam đều là di sản của 
văn hóa Việt Nam, đều là bộ phận tạo thành của văn hóa Việt Nam” – GS Lê
 nêu quan điểm mới về nhận thức lịch sử Việt Nam.
Cũng từ nguyên tắc này, “với cuộc kháng chiến 
chống Pháp thì cần nghiên cứu trình bày cả vùng chiếm đóng của Pháp, 
trong đó bao gồm cả Hà Nội thời kỳ Pháp chiếm đóng, cả quốc gia Việt Nam
 thời Bảo Đại.
Tương tự, thời kỳ kháng chiến chống Mỹ 
(1954-1975) cũng cần nghiên cứu sâu hơn về những vùng tạm chiếm ở miền 
Nam, đặc biệt là Sài Gòn, và cả lịch sử của Việt Nam cộng hòa. GS nói rõ
 hơn: “Trước đây ta vạch ra ranh giới của địch và ta và chỉ trình bày 
phía ta đã làm mất đi căn cứ pháp lý trọng yếu để khẳng định chủ quyền 
với lãnh thổ Việt Nam. Quan điểm lịch sử mới này vừa là thực tế lịch sử 
vừa là bộ phận có tính chất khách quan trung thực và là căn cứ pháp lý 
trọng yếu để khẳng định chủ quyền Việt Nam trên bộ, đặc biệt là trên 
biển, hải đảo”.
Theo tôi các nhà viết sử VN khi trình bày lịch sử
 một giai đoạn lịch sử, một vùng miền hay một triều đại rất khó không 
thể không trình bày theo nhãn quan chính trị và góc nhìn mà mình đang 
thụ hưởng. Nhưng có nên chăng khi nhất thiết cứ phải dựa trên mối quan 
hệ là sự đoàn kết hiện tại trong khi chính những sự mâu thuẫn, đối lập, 
xung đột thậm chí là chiến tranh trong từng giai đoạn lịch sử cũng là 
mối quan hệ cần trình bày một cách khách quan .
Một số nhà khoa học lịch sử, ngay trong cuộc lễ 
này cũng đã có những phát biểu phản biện mới, đáng được công luận quan 
tâm. Khi nói về tính chính xác của sử Việt, GSTS sử học Nguyễn Quang 
Ngọc cho rằng “ Nói về VN mà lại không có các vương triều phía Nam thì 
không bảo đảm tính toàn vẹn … Vua Gia long với sự cố gắng hết sức của 
mình đã đem lại sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho chúng ta như ngày 
hôm nay thì tại sao không đưa ông ấy vào lịch sử ?”
Cũng theo PGS.TS Trần đức Cường – nguyên Viện 
trưởng Viện sử học; trước câu hỏi nêu ra là – có nên viết ra những câu 
chuyện chẳng hay ho gì trong lịch sử dân tộc, lịch sử đất nước. Ông đã 
thẳng thắn đặt vấn đề là đã đến lúc đưa vào sử sách những câu chuyện 
ngay trong thời hiện đại như “Câu chuyện về cải cách ruộng đất, Nhân văn
 giai phẩm, Phong trào hợp tác hoá… chứ không phải là cái gì tốt thì 
khoe các gì xấu thì cứ che như cách viết sử hiện nay ! ”
Giáo sư Cường khẳng định “Chúng ta viết khách 
quan trung thực về những sự kiện lịch sử đã xảy ra nhưng xuyên suốt vẫn 
vì lợi ích của dân tộc, của đất nước ?”
Vào những năm 70 của thế kỷ trước, khi cố Thủ 
tướng Phạm Văn Đồng được trung ương phân công chỉ đạo việc biên soạn bộ 
sách lịch sử do Ủy ban Khoa học Xã hội VN chủ trì. Đây là giai đoạn cao 
trào của việc ” đả thực bài phong “, đả phá quyết liệt các chúa Nguyễn 
và triều Nguyễn, nhưng ông cũng đã nhắc nhở những người tham gia biên 
soạn bộ sử lúc ấy rằng, rồi “đến lúc nào đó” phải xem xét lại chính 
những gì mà các nhà viết sử thời ấy đã viết !
Phải chăng cái “đến lúc nào đó” đã đến lúc ?
Đinh Khắc Thiện











Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire